Bản án 47/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2020, đối với bị cáo:

 1/ Nguyễn Thanh P, sinh năm 1990 tại Cần Thơ. Đăng ký thường trú: 179/1, Khu vực 5, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh T và bà Dương Thị Anh Đ; Vợ Nguyễn Thị Kim A và 01 con sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/9/2019. Có mặt

 2/ Nguyễn Văn M, sinh năm 1985 tại Vĩnh Long Nơi cư trú: ấp M1, xã M2, Hện B, tỉnh Vĩnh Long.

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị H; Vợ Nguyễn Thị N1.

Tiền án, tiền sự: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/10/2019. Có mặt

Bị hại:

1/ Nguyễn Hoàng P1, sinh năm 2000. Vắng mặt HKTT: 136/3 Đông Bình, phường T, quận T1, thành phố Cần Thơ Chỗ ở: 4/23 C, phường C1, quận N, thành phố Cần Thơ

2/ Lê Gia H, sinh năm 2000. Vắng mặt Nơi cư trú: 300 ấp H1, xã H2, Huyện G, Kiên Giang

3/ Trần Văn K, sinh năm 2000. Vắng mặt Nơi cư trú: ấp M, xã T, Huyện P2, Hậu Giang

 Nười có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

1/ Nguyễn Thanh D, sinh năm 1990. Vắng mặt Nơi cư trú: 317/26 N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

2/ Trần Đức Th, sinh năm 2001. Vắng mặt Nơi cư trú: 112/7 N, phường An N, quận N, thành phố Cần Thơ

3/ Nguyễn Hữu T2, sinh năm 1975. Vắng mặt Nơi cư trú: 1/91 Trần Phú, phường Cái Khế, quận N, thành phố Cần Thơ

4/ Nguyễn Thị Kim H3, sinh năm 1990. Vắng mặt Nơi cư trú: 112/250 Nguyễn Thị Minh Khai, phường An Lạc, quận N, thành phố Cần Thơ.

5/ Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1965 (Đại diện theo ủy quyền Nguyễn Văn S, sinh năm 1964). Vắng mặt Cùng cư trú: 38/27/35A , phường A2, quận N, thành phố Cần Thơ.

6/ Nguyễn Thị H4, sinh năm 1980 (Đại diện theo ủy quyền Trần Triều Đại Th, sinh năm 1975). Vắng mặt Cùng cư trú: ấp Th, xã G, Huyện P2, thành phố Cần Thơ

7/ Trần Thị Lan A, sinh năm 1983. Vắng mặt Nơi cư trú: 95/37 L, Phường 13, quận P3, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 01/9/2019, Nguyễn Thanh P và Nguyễn Văn M gặp nhau tại tiệm game bắn cá số 268 Nguyễn Đệ, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Tại đây P rủ M điều khiển xe mô tô đi trên các tuyến đường trên địa bàn quận N, tìm xe mô tô của người khác để sơ hở lấy trộm, M đồng ý. P điều khiển xe mô tô Honda Wave (không rõ biển số) do P mượn của người khác chở M, khi đến tiệm game Như P1 đường Nguyễn Văn Cừ, phường A2, quận N, P phát hiện tại bãi xe không người trông giữ nên dừng xe. M ngồi ngoài cảnh giới, P đi vào trong lén lấy trộm xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, biển số 65F1-518.78 của anh Nguyễn Hoàng P1 dẫn ra ngoài rồi cùng M tẩu thoát. P nhờ Trần Thị Kim T4 cầm cho Trần Phước Hậu số tiền 3.400.000 đồng, P chia cho M 1.000.000 đồng, cả hai tiêu xài hết. Tài sản không thu hồi được, anh P1 yêu cầu các bị can bồi thường số tiền 24.000.000 đồng.

Bản kết luận định giá tài sản số 1154/BKL-HĐĐG ngày 10/10/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, biển số 65F1-518.78, có giá trị 21.500.000 đồng.

Ngoài vụ trộm cắp tài sản nói trên, P còn thực hiện 02 vụ trộm tài sản trên địa bàn quận N, cụ thể như sau:

Vụ 1: Khoảng 02 giờ ngày 18/5/2019, P gặp Nguyễn Thanh D (D Mập) tại tiệm game bắn cá Hải Triều phường H2, quận C. P nhờ D chở đến nhà bạn để lấy xe mô tô, D đồng ý và sử dụng xe mô tô Honda Airblade (không rõ biển số) chở P. Khi đến nhà trọ số 127/8B Mậu Thân, phường A2, P kêu D đậu xe bên ngoài nhà trọ. P đi vào nhà trọ lấy trộm xe mô tô Yamaha Exiter, biển số 95E1-524.11 của anh Trần Văn K. P nói xe của P hết xăng và nhờ D kè về nhà trọ của Trần Quốc C (C Não) tại phường A3, quận B. Tại đây P nhờ D xem giúp xe có gắn định vị không, do sợ vợ gắn vào để theo dõi P, D đồng ý kiểm tra và tháo thiết bị định vị đưa cho P. Sau đó, P cầm xe này cho D với giá 5.000.000 đồng, P tiêu xài hết. D tiếp tục đem xe cầm cho Trần Đức Th với giá 5.000.000 đồng.

Trần Đức Thắng đã giao nộp xe trên, Cơ quan điều tra đã làm rõ và ra quyết định xử lý vật chứng trả lại Trần Văn K.

Về trách nhiệm dân sự: Trần Đức Th và Trần Văn K không yêu cầu gì khác.

Bản kết luận định giá tài sản số 694/BKL-HĐĐG ngày 02/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu Yamaha Exiter, biển số 95E1-524.11, có giá trị 39.500.000 đồng.

Vụ 2: Khoảng 03 giờ ngày 09/8/2019, P gặp Công (Công ghẻ, chưa rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá số 268 Nguyễn Đệ, phường A2, P nhờ Công chở đến tiệm game Như P1 đường Nguyễn Văn Cừ, phường A, quận N để lấy trộm xe mô tô của người khác. Công đồng ý và điều khiển xe mô tô SH Mode (không rõ biển số) chở P. Khi đến tiệm game Như P1, Công ở ngoài cảnh giới, P vào bên trong lấy trộm xe mô tô FI Yamaha, biển số 68KA-022.76 của anh Lê Gia H, dẫn ra ngoài rồi cùng Công tẩu thoát. P về cà số khung, số máy xe rồi gắn vào biển số 65F7-9349, đưa xe cho người tên Nương (không rõ lai lịch) cầm cho Nguyễn Hữu T2 4.500.000 đồng, P tiêu xài hết.

Quá trình điều tra Nguyễn Hữu T2 giao nộp lại xe mô tô trên.

Bản kết luận giám định số 689/KLGĐ-PC09 ngày của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: xe mô tô hiệu Yamaha số khung đã bị cà, số máy nguyên thủy: VZS…9FMB.

Biển số 65F7-9349, qua xác minh là của Lê Văn S ngụ tại phường H2, quận C, thành phố Cần Thơ. Anh S vắng mặt tại địa phương từ năm 2003, nên không làm việc được.

Cơ quan điều tra đã làm rõ và ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho Lê Gia H.

Về trách nhiệm dân sự, Lê Gia H không yêu cầu gì khác; Nguyễn Hữu T2 yêu cầu P bồi thường 4.500.000 đồng.

Bản kết luận định giá tài sản số 1292BKL-HĐĐG ngày 05/11/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu FI Yamaha, biển số 68KA-022.76, có giá trị 9.500.000 đồng.

Quá trình điều tra Nguyễn Thanh P và Nguyễn Văn M thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản nêu trên.

Tài sản P chiếm đoạt là 70.500.00 đồng; M21 .500.000 đồng . Đối với vật chứng, tài sản thu giữ khi khám xét nhà của Trần Phước H tại số 50/16/12 Quang Trung, phường A3, quận N, thành phố Cần Thơ:

+ 02 gói nylon nẹp miệng bên trong chứa tinh thể không màu; 02 nỏ thủy tinh;

01 cây kéo; 01 bình tự chế để sử dụng ma túy; 02 hộp quẹt gas; 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím bấm; 01 điện thoại di động hiệu Huawei màu đen; 01 máy tính;

02 ống hút nhựa; ông thủy tinh; 30 bịt nylon kẹp miệng; ống thủy tinh; cuộn băng keo; bình tự chế để sử dụng ma túy. Đội cảnh sát hình sự - Công an quận N đã bàn giao tất cả các vật chứng cho Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận N để xử lý theo thẩm quyền.

+ Xe mô tô Wave Alpha màu đỏ, biển số 65L1-5974, qua xác minh chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị H4. Ngày 07/8/2019, chồng bà H4 là ông Trần Triều Đại Thụy mượn của Hậu số tiền 4.000.000 đồng và thế chấp xe trên cho Hậu. Thụy đã trả số tiền trên cho Hậu;

Xe mô tô hiệu Wave màu đỏ - đen, biển số 65D1-290.44, người quản lý và sử dụng hợp pháp là Nguyễn Thị Thu H5, ngày 24/9/2019 Hoa mượn Trần Phước Hậu 5.000.000 đồng và thế chấp xe trên cho H, H5 đã trả đầy đủ số tiền trên cho H.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả 02 xe trên cho Trần Triều Đại Th và Nguyễn Văn S (do Nguyễn Thị Thu H và Nguyễn Thị H4 ủy quyền), về trách nhiệm dân sự các đương sự không yêu cầu gì thêm.

+ Xe mô tô hiệu Suzuki RGV 120, màu đỏ biển số 51F2-6983, qua xác minh người quản lý và sử dụng hợp pháp là Trần Thị Lan A (vợ của Trần Phước H5);

Xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen - cam, biển số 65X2-6246 chủ sở hữu là Trần Văn Vũ , ngày 26/10/2017 Vũ bán cho Trần Phước H5; xe mô tô hiệu Honda Vision , màu nâu , biển số 65 B1 -297.93, người quản lý sử dụng hợp pháp là Bùi Văn L, L thế chấp để vay của H5 5.000.000 đồng; xe mô tô hiệu Wave S, màu đỏ, biển số 65D1-056.42 người quản lý sử dụng hợp pháp là Châu Quốc T, T thế chấp để vay của H5 5.000.000 đồng. Tại thời điểm khám xét H5 đang quản lý tất cả 04 xe mô tô trên, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả 04 xe trên cho Trần Thị Lan A (do Trần Phước H5 ủy quyền), về trách nhiệm dân sự Lan A không yêu cầu gì thêm.

Đối với Nguyễn Thanh D (D Mập), Trần Chí T, Trần Quốc C (C Não), Trần Phước H5, Nguyễn Hữu T2 và Trần Thị Kim Th đều không biết tài sản do các bị can trộm cắp mà có, do đó chưa đủ cơ sở xử lý tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số 50/VKSNK ngày 06/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố bị cáo: Nguyễn Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn M về “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng truy tố các bị cáo. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và phù hợp với các chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra.

Bị cáo P thực hiện 03 vụ trộm, M thực hiện 01 vụ trộm.

Hai bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe và phòng chống tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng, không có.

Về tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; P ra đầu thú nhận tội; M mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thanh P từ 02 năm 06 tháng đến 3 năm tù;

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn M từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Ghi nhận người bị hại và người liên quan đã nhận lại tài sản.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 589 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận các bị cáo đồng ý bồi thường cho Nguyễn Hoàng P1 số tiền 24.000.000 đồng (12.000.000 đồng/người) và P đồng ý bồi thường cho Nguyễn Hữu T2 4.500.000 đồng.

P xin xét xử mức án phù hợp để cải tạo tốt, chuộc lại lỗi lầm; M xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về với cộng đồng.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội: Nguyễn Thanh P và Nguyễn Văn M do cần tiền tiêu xài nên đã cùng nhau trộm cắp tài sản.

Rạng sáng mùng 01/9/2019, P chở M đến tiệm game Như P1 trên đường Nguyễn Văn Cừ, phường A2 lấy trộm xe mô tô của Nguyễn Hoàng P1 đem cầm lấy tiền chia nhau tiêu xài. Qua định giá, xe mô tô 65F1-518.78 có giá trị 21.500.000 đồng, đã đủ cơ sở xử lý P và M về tội Trộm cắp tài sản.

Hành vi của các bị cáo là quá xem thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự xã hội.

Đối với vụ án này, P là người đề xướng, rủ rê, trực tiếp lấy trộm xe của bị hại P1 và hưởng lợi nhiều hơn M nên chịu mức hình phạt cao hơn.

Ngoài vụ án này, P còn thực hiện 02 trộm cắp khác.

Ngày 18/5/2019, P lấy trộm xe mô tô của Trần Văn K. Qua định giá, xe 95E1- 524.11 có giá trị 39.500.000 đồng;

Ngày 09/8/2019, P trộm xe mô tô của Lê Gia H. Qua định giá, xe 68KA- 022.76 có giá trị 9.500.000 đồng.

Như vậy, giá trị tài sản P chiếm đoạt là 70.500.000 đồng; M chiếm đoạt là 21.500.000 đồng.

P phải chịu khung hình hình phạt tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp.

Về tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; P ra đầu thú nhận tội; M mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

P được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; M được hưởng tình tiết tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng, không có.

Kiểm sát viên đề nghị xử phạt P từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; M từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù là thỏa đáng.

Về xử lý vật chứng : Lê Gia H đã nhận lại xe mô tô Yamaha FI (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 18/12/2019);

Trần Văn K đã nhận lại xe mô tô Yamaha Exiter biển số 95E1-524.11 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 14/11/2019);

Trần Triều Đại Th đã nhận lại xe mô tô Wave Alpha biển số 65L1.5978 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020);

Nguyễn Văn S đã nhận lại xe mô tô Wave biển số 61D1.290.44 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020);

Trần Thị Lan A đã nhận lại: xe mô tô hiệu Suzuki RGV 120, màu đỏ biển số 51F2-6983; xe mô tô hiệu Honda Vision, màu nâu, biển số 65B1-297.93; xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen - cam, biển số 65X2-6246; xe mô tô hiệu Wave S, màu đỏ, biển số 65D1-056.42 và số tiền 9.000.000 đồng do Trần Triệu Đại T giao nộp (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020), nên ghi nhận.

Biển số xe số 65F7-9349 là của Lê Văn S, cần tịch thu tiêu hủy – do S không còn ở địa phương (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/10/2020).

Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Hoàng P1 số tiền 24.000.000 đồng (Giá trị xe mô tô Wave RSX đen trắng biển số 65F1-518.78), mỗi bị cáo phải nộp 12.000.000 đồng.

Ngoài ra, P còn phải bồi hoàn cho Nguyễn Hữu T2 4.500.000 đồng.

Đối với xe mô tô hiệu Honda Vision, màu nâu, biển số 65B1-297.93 thuộc sở hữu của Nguyễn Thị Kim H4, H4 cầm xe cho tiệm cầm đồ Trung Sơn 10.000.000 đồng đến hạn không chuộc lại tài sản, xe được hóa giá bán cho người khác. Nên không giải quyết trong vụ án này.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

Về án phí dân sự sơ thẩm: P phải nộp 825.000 đồng; M phải nộp 600.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với Nguyễn Thanh P;

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với Nguyễn Văn M.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh P và Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Thanh P 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24/9/2019;

Bị cáo Nguyễn Văn M 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 16/10/2019.

Về xử lý vật chứng : Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Ghi nhận: Lê Gia H đã nhận lại xe mô tô Yamaha FI (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 18/12/2019);

Trần Văn K đã nhận lại xe mô tô Yamaha Exiter biển số 95E1-524.11 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 14/11/2019);

Trần Triều Đại Th (đại diện cho Nguyễn Thị H4) đã nhận lại xe mô tô Wave Alpha biển số 65L1.5978 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020);

Nguyễn Văn S (đại diện cho Nguyễn Thị Thu H) đã nhận lại xe mô tô Wave biển số 61D1.290.44 (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020);

Trần Thị Lan A đã nhận lại xe mô tô hiệu Suzuki RGV 120, màu đỏ biển số 51F2-6983; xe mô tô hiệu Honda Vision, màu nâu, biển số 65B1-297.93; xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen – cam biển số 65X2-6246; xe mô tô hiệu Wave S, màu đỏ biển số 65D1-056.42 và số tiền 9.000.000 đồng (Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 10/02/2020).

Tịch thu tiêu hủy biển số xe số 65F7-9349 (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/10/2020).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Các bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Hoàng P1 số tiền 24.000.000 đồng (Giá trị xe mô tô hiệu Wave RSX đen trắng biển số 65F1-518.78), mỗi bị cáo nộp 12.000.000 đồng;

Bị cáo P còn phải bồi hoàn cho Nguyễn Hữu T2 4.500.000 đồng.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

Về án phí dân sự sơ thẩm: P phải nộp 825.00 đồng; M phải nộp 600.000 đồng.

Về quyền kháng cáo bản án : Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;