Bản án 47/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Huỳnh Mạnh H (tên thường gọi là Ty); Sinh ngày: 03/4/1992; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 233/111 đường HG, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ và bà: Lê Thị T; Có vợ: Là bà Châu Kim H1 và con: Có 01 người con, sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 26/12/2018.

Nhân thân: Ngày 07/11/2013, bị Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án về tội «Cưỡng đoạt tài sản» (Bản án số: 184/2013/HS-ST). Chấp hành xong hình phạt bổ sung ngày 10/12/2013 (Công văn trả lời xác minh số: 1028/CCTHADS ngày 25/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Võ Bá P; Sinh năm: 1998; Thường trú: 1051A đường HG, Phường K, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: R1-C8 số 103 đường 1A, khu dân cư ấp B, xã TN, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 04 giờ 30 phút ngày 26/12/2018, tại trước nhà số 35D3 đường THĐ, Phường M, Quận F, lực lượng trinh sát hình sự Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Võ Bá P đang điều khiển xe gắn máy biển số 53R6-5423 chở Lê Huỳnh Mạnh H có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra hành chính, do H và P không xuất trình được giấy tờ nên cả hai được đưa về trụ sở Công an Phường 13, Quận 6 làm việc. Tại đây, qua kiểm tra đã thu giữ trong túi quần bên phải của H 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (H khai đó là ma túy đá), nên đã giao H, P cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Huỳnh Mạnh H khai: Khoảng 01 giờ ngày 26/12/2018, H đi xe ôm qua khu vực cầu Chữ U, Phường M, Quận H mua từ một người đàn ông tên UL (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng. Sau khi mua xong, H cất bịch ma túy trong túi quần bên phải rồi về tiệm game bắn cá trên đường THĐ, Phường M, Quận F nhờ Võ Bá P chở đi mua đồ. P đồng ý và mượn xe của T1 (không rõ lai lịch) chở H chạy đến trước nhà số 35D3 đường Tân Hòa Đông thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Võ Bá P cũng tương tự và xác nhận không biết Lê Huỳnh Mạnh H cất giữ ma túy trong người.

Tại Kết luận giám định số: 270/KLGĐ-H ngày 02 tháng 01 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Linh Huy (người chứng kiến), Lê Huỳnh Mạnh H và hình dấu Công an Phường 13, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4828g (không phẩy bốn tám hai tám gam), loại Methamphetamine.

Đối với Võ Bá P, do không liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Huỳnh Mạnh H, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn người đàn ông tên UL , Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 41/CT-VKS ngày 11 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 01 bịch ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) giá 300.000 đồng từ một người đàn ông tên UL (không rõ lai lịch) ở khu vực cầu Chữ U thuộc Phường 14, Quận 8 để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại trước nhà số 35D3 đường THĐ, Phường M, Quận F vào lúc 04 giờ 30 phút ngày 26/12/2018 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 270/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương.

Trả lại bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H 01 chiếc điện thoại di động phía sau lưng ghi chữ Nokia, vỏ màu đỏ, số Imei 1: 353708076038224, số Imei 2: 353708076038232 và 01 sim điện thoại số seri: 8401170850188711OT.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối cH lời khai của bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của Võ Bá P và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H đã cất giữ 0,4828 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H có nhân thân xấu, đó là ngày 07/11/2013, bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án về tội «Cưỡng đoạt tài sản». Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội. Ngoài ra, trong thời gian bị tạm giam, bị cáo liên tục vi phạm kỷ luật, vi phạm nội quy của Nhà tạm giữ (Quyết định kỷ luật số: 04/QĐ ngày 31/5/2019 và số: 01/QĐ ngày 07/6/2019 của Nhà tạm giữ Công an Quận 6). Cho thấy, bị cáo là người hết sức xem thường pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 270/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động phía sau lưng ghi chữ Nokia, vỏ màu đỏ, số Imei 1: 353708076038224, số Imei 2: 353708076038232 (bên trong có 01 sim điện thoại số seri: 8401170850188711OT) thu giữ của bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo PH nhập kho vật chứng số: 16/PNK ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL13)

[7] Đối với Võ Bá P, tuy có hành vi sử dụng ma túy, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và Công an Quận 6 đã giao P cùng các tài sản thu giữ của P gồm: 01 chiếc xe gắn máy biển số 53R6-5423 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mobell cho Công an Phường 13, Quận 6 xử lý hành chính, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Còn người đàn ông tên UL mà bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H (Ty) phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H (Ty) 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 270/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H 01 (một) chiếc điện thoại di động phía sau lưng ghi chữ Nokia, vỏ màu đỏ, số Imei 1: 353708076038224, số Imei 2: 353708076038232 và 01 (một) sim điện thoại số seri: 8401170850188711 OT.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.  Bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Lê Huỳnh Mạnh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;