Bản án 47/2019/HSST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 47/2019/HSST NGÀY 02/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2019/HSST ngày 02 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn Đ; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1973 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản N, xã Chiềng Ngàm, huyện Thuận Châu, Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 0/12 (Không biết chữ); con ông Lò Văn L, sinh năm 1944 và bà Lò Thị M, sinh năm: 1947; vợ là Lường Thị D, sinh năm 1971 và có 03 con, lớn nhất 22 tuổi, nhỏ nhất 20 tuổi; tiền án: Không có, tiền sự: năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian  14  tháng  (tháng  8  năm  2018  áp  dụng  xong);  bắt  tạm  giam  giữ  từ  ngày 14/01/2019 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi liên quan: bà Lường Thị D, sinh năm 1971. Địa chỉ: BảnN, xã Chiềng Ngàm,  huyện Thuận Châu, Sơn La, có mặt

Người phiên dịch cho bị cáo: ông Lò Văn I, sinh năm 1986. Địa chỉ: bản Nong Lào, xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 14/01/2019, Lò Văn Đ điều khiển xe máy BKS 26H5- 3682 đi một mình từ nhà ở bản N, xã Chiềng Ngàm, huyện Thuận Châu ra bản Long Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến bản Long Cại, xã Thôm Mòn Đ gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (Đ không biết họ tên và địa chỉ cư trú) đứng ven đường một gói Heroine gói bằng nilon màu trắng với giá 30.000đồng (Ba mươi nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, Đ cầm gói Heroine bên tay phải rồi điều khiển xe máy đi về nhà, khi Đ đi đến bản Thôm, xã Thôm Mòn thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu bắt quả tang (BL 45-52 hồ sơ).

Tang vật tạm giữ gồm:

1. 01 (Một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroine (Theo Lò Văn Đ khai nhận là Heroine);

2. 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu MERITUS, loại xe WIN, màu sơn đỏ, số khung 100960, số máy 003960 BKS 26H5-3682 xe đã qua sử dụng cũ. (Gồm: hai khoản) (BL 13-14 hồ sơ).

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 14/01/2019, tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành cân tịnh toàn bộ số bột cục màu trắng nghi là Heroine có trong gói nilon màu trắng được khối lượng 0,33 gam, trích 0,10 gam ký hiệu Đ1 gửi giám định, còn lại 0,23 gam nhập kho vật chứng. Đồng thời Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu ra Quyết định số 781/QĐ ngày 14/01/2019 đối với mẫu vật ký hiệu Đ1 gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 252 ngày 18/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ1 là chất ma túy, loại chất Heroine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10gam. Khối lượng chất ma túy thu giữ của Lò Văn Đ là 0,33 gam loại Heroine (BL 28-31 hồ sơ).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định...

Bản cáo trạng số 47/CT- VKS ngày 01-4-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Lò Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 14-01-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo).

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

- Tuyên tịch thu tiêu hủy một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Đ – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 14- 01-2019; 0,23 gam heroine ký hiệu Đ2 + 01(Một) mảnh ni lon màu trắng + 01(Một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu

- Trả cho chị Lường Thị D: 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu MERITUS, loại xe WIN, màu sơn đỏ, BKS 26H5-3682, số khung 100960, số máy 003960 xe đã qua sử dụng cũ.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan có ý kiến: chị Dân không biết việc bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy và đề nghị hội đồng xét xử cho chị xin lại xe làm phương tiện đi lại

Lời nói sau cùng của bị cáo Lò Văn Đ: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi tàng trữ trái phép là 0,33 gam heroine của bị cáo Lò Văn Đ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bởi, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

 [3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm đối với bị cáo Lò Văn Đ.

[4] Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; có 01 tiền sự về tội ma túy (năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 14 tháng) và biết rõ tác hại của ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng ít, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo

[8] Về vật chứng:

Đối với 0,23 gam Heroine còn lại sau trích gửi giám định; 01 mảnh nilon màu trắng và 01 (Một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành và công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, hết giá trị sử dụng, cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu MERITUS, loại xe WIN, màu sơn đỏ, BKS 26H5-3682, số khung 100960, số máy 003960 xe đã qua sử dụng cũ, tạiphiên tòa xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, vợ bị cáo không biết việc bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy và có đơn xin lại xe nên Hội đồng xét xử quyết định trả cho chị Dân theo Điều 48 BLHS

[9] Đối với người đàn ông dân tộc Thái theo Đ khai nhận là người đã bán ma túy cho Đ vào ngày 14/01/2019 tại bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn. Do Đ không biết họ tên và địa chỉ cư trú của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra xác minh, là có căn cứ, cần chấp nhận

[10] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án..

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Áp dụng  điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 14-01-2019 ( là ngày bắt giam giữ bị cáo ).

Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

- Tuyên tịch thu tiêu hủy một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Đ – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 14- 01-2019; 0,23 gam heroine ký hiệu Đ2 + 01(Một) mảnh ni lon màu trắng + 01(Một)vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu

- Trả cho chị Lường Thị D: 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu MERITUS, loại xe WIN, màu sơn đỏ, BKS 26H5-3682, số khung 100960, số máy 003960 xe đã qua sử dụng cũ.

4. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng

5. Quyền kháng cáo

Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2019/HSST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;