TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ H VÀ ANH T
Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 161/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 33/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đào Thị H sinh năm 1994
ĐKHKTT: Thôn A, xã Â, huyện Q, tỉnh Thái Bình
Nơi ở: Thôn H, xã QT, huyện Q, tỉnh Thái Bình
- Bị đơn: Anh Vũ Ngọc T sinh năm 1987
Địa chỉ: Thôn A, xã Â, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa có chị H, anh T vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 23/6/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Đào Thị H trình bày:
Chị và anh Vũ Ngọc T tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Â vào ngày 22/8/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 9/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T có biểu hiện không chung thủy, lại thường xuyên đánh đập, hành hạ chị. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 10/2018, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Thôn H, xã QT sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, chị xin ly hôn anh T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Đào Đsinh ngày 08/8/2011, hiện đang ở với anh T và bố mẹ đẻ anh T. Ly hôn, chị để anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị nhận trách nhiệm cấp dưỡng cho con 1.000.000 đồng/tháng. Hiện tại chị không có thai nghén gì.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Vũ Ngọc T vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.
Kết quả xác minh với gia đình anh Vũ Ngọc T (bà Nguyễn Thị D – mẹ đẻ của anh T); cơ sở thôn An Ấp, xã Â và cơ sở thôn H, xã QT: Chị Đào Thị H và anh Vũ Ngọc T là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì gia đình và cơ sở thôn không biết rõ, chỉ biết chị H nghi ngờ anh T có biểu hiện không chung thủy, từ tháng 10/2018 chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn H, xã QT sinh sống. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh T gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án hòa giải giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị H và anh T có 01 con chung là Vũ Đào Đ sinh ngày 08/8/2011, hiện đang ở với anh T và bố mẹ đẻ anh T. Từ ngày chị H bỏ đi anh T chăm sóc con rất chu đáo, khi anh T vắng nhà thì bố mẹ đẻ anh T là người thay anh T chăm sóc cháu Đ, anh T cũng thường xuyên đưa tiền để bố mẹ đẻ anh T chăm sóc con. Nếu chị H và anh T ly hôn, về con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung gia đình và cơ sở thôn không rõ.
Anh Vũ Ngọc T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn A, xã Â, huyện Q nhưng có đi làm ăn xa, địa chỉ cụ thể thì gia đình và cơ sở thôn không rõ, chỉ biết anh T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình và thường xuyên về gia đình để chăm sóc con. Bà Nguyễn Thị D xác nhận đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã giao các văn bản này cho anh T, anh T đã biết việc Tòa án giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung giữa chị H và anh T.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp Hnh pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến nhận xét về việc tuân theo pháp luật của bị đơn tại phiên tòa.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Đào Thị H được ly hôn anh Vũ Ngọc T; giao con chung Vũ Đào Đ sinh ngày 08/8/2011 cho anh Vũ Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng cho con 1.000.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng cho con tính từ tháng 10/2019, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị H có quyền, nghĩa vụ đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản chung không đặt ra giải quyết; về án phí: chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng: Chị Đào Thị H khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Vũ Ngọc T. Do anh T là bị đơn, cư trú tại Thôn A, xã Â, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Quỳnh Phụ, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến Hnh xét xử là phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị H và anh Vũ Ngọc T được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Â, huyện Q, tỉnh Thái Bình cấp giấy đăng ký kết hôn số 32 ngày 22/8/2011 là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 9/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tin yêu, thông cảm cho nhau nên dẫn đến việc chị H có nghi ngờ anh T có biểu hiện không chung thủy. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 10/2018, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay, không ai hỏi han quan tâm gì tới ai. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh T, Tòa án đã tiến Hnh hòa giải nhưng anh T không có mặt tại phiên hòa giải và vắng mặt tại các buổi tố tụng của Tòa án mặc dù anh T đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án. Điều đó chứng tỏ anh T không có thiện chí hòa giải, không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Như vậy, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ tồn tại về mặt hình thức, anh, chị thực sự không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ con chung: Chị Đào Thị H và anh Vũ Ngọc T có 01 con chung là Vũ Đào Đsinh ngày 08/8/2011, hiện đang ở với anh T và bố mẹ đẻ anh T.
Ly hôn, chị H có nguyện vọng giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, chị để anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị nhận cấp dưỡng cho con 1.000.000 đồng/tháng. Xét thấy, con chung đang ở với anh T và bố mẹ đẻ anh T. Từ ngày chị H bỏ về, anh T và bố mẹ đẻ anh T chăm sóc con rất chu đáo, những lúc anh T vắng nhà thì bố mẹ anh T là người thay anh T chăm sóc con chung, cháu Đ đang học tại trường tiểu học Â, cháu phát triển bình thường phù hợp với lứa tuổi. Về mức cấp dưỡng nuôi con thấy rằng hiện tại chị H lao động tự do, thu nhập không ổn định nên mức cấp dưỡng nuôi con như chị H đưa ra là phù hợp với điều kiện của chị H. Để không làm ảnh hưởng đến việc học tập sinh hoạt của con chung, cần giao con chung cho anh Vũ Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng cho con 1.000.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 10/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, chị H có quyền, nghĩa vụ trông nom, giáo dục con chung là phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung: Chị Đào Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết còn anh Vũ Ngọc T không có ý kiến trình bày về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Chị Đào Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị Đào Thị H và anh Vũ Ngọc T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đào Thị H được ly hôn anh Vũ Ngọc T.
2.Về quan hệ con chung: Xử giao con chung Vũ Đào Đ sinh ngày 08/8/2011 cho anh Vũ Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đà Thị H có trách nhiệm cấp dưỡng cho con 1.000.000 đồng/tháng (Một triệu đồng một tháng), thời gian cấp dưỡng cho con tính từ tháng 10/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đào Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiến án phí cấp dưỡng cho con. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004080 ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí, chị H còn phải nộp tiếp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Chị Đào Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Vũ Ngọc T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 08/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị H và anh T
Số hiệu: | 47/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về