TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NC, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 47/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 27 tháng 12 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NC mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 123/2017/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp Hôn nhân gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2017/QĐXX-ST ngày 12 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Ngọ Thị H - Sinh năm 1993(Có mặt) Địa chỉ: Thôn Ng Tr xã TB huyện NC tỉnh Thanh Hóa. Bị đơn: Anh Ngọ Văn C - Sinh năm 1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ng Tr xã TB huyện NC tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 09 tháng 8 năm 2017 của chị Ngọ Thị H thì nội dung vụ án thể hiện như sau:
Về hôn nhân: Chị Ngọ Thị H và anh Ngọ Văn C xây dựng gia đình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức đám cưới. Đăng ký kết hôn tại UBND xã T B, huyện N C, tỉnh Thanh Hoá ngày 16/9/2013.
Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 8/2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C đi làm ăn xa một thời gian dài không có liên lạc gì, Hiện nay chị không biết anh C ở đâu, anh ấy đi làm nhưng không gửi tiền về, không chăm lo và quan tâm gì đến vợ con. Chị và con ở nhà với bố mẹ chồng thì bị bắt bẻ, chửi bới, anh Cường còn nghe lời mẹ đánh chị. Vợ chồng chị đã thôi quan hệ sinh lý và sống ly thân từ tháng 8/2014 cho đến nay. Hiện nay chị không có thai nghén gì với anh C. Chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức độ trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Vì vậy, chị đề nghị Tòa án cho chị xin được ly hôn với anh Ngọ Văn C.
Về con chung: Chị H và anh Ngọ Văn C có 01 con chung là cháu Ngọ Thị Kim Hằng, sinh ngày 13/8/2014. Hiện nay cháu đang ở với mẹ, nguyện vọng của chị Hạnh là xin được nuôi con và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con là 800.000đ/ tháng. Thời điểm cấp dưỡng là từ tháng 8/2017 cho đến khi cháu thành niên.
Về tài sản chung và công nợ chung: Phần tài sản và công nợ chung không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án TAND huyện N C đã gửi thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Cường, nhưng anh C vắng mặt tại nơi cư trú. Toà án tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định, anh C đã biết Tòa án đang giải quyết ly hôn nhưng vẫn cố tình không đến Tòa án làm việc, cố tình giấu địa chỉ. Vì vậy Tòa án phải tiến hành các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ.
Theo biên bản xác minh ngày 31/7/2017: Ông Ngọ Văn Q là bố đẻ của anh Ngọ Văn C trình bày: Chị H và anh C xây dựng gia đình hạnh phúc, có tìm hiểu, có tổ chức cưới. Đăng ký kết hôn tại UBND xã Th B ngày 16/9/2013. Sau khi cưới vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Anh Cường và chị H đi miền nam làm ăn, cuộc sống bình thường. Đến năm 2014 chị H về quê sinh con tại nhà bố mẹ anh Cường. Sau đó anh C bị tai nạn nên giảm khả năng lao động. Vì lý do trên thu nhập của anh C ít, không đảm bảo nuôi vợ con nên chị H và anh C mâu thuẫn cãi nhau. Năm 2015 chị Hạnh bỏ về nhà mẹ đẻ sống từ đó cho đến nay. Còn anh C đi miền Nam làm ăn, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Khi mẫu thuẫn xảy ra, anh C đã cố gắng níu kéo nhưng không được. Gia đình ông cũng đã động viên nhưng không được. Vì vậy ông cũng đề nghị Tòa án cho ly hôn.
Về con chung: Chị H và anh C có 01 con chung cháu Ngọ Thị Kim H, sinh ngày 13/8/2014. Hiện nay chị Hạnh đang nuôi dưỡng cháu. Về quan điểm nuôi con thì do anh C quyết định. Tuy nhiên nếu chị H không muốn nuôi thì vợ chồng ông xin nuôi.
Về tài sản và công nợ chung: Ông được biết vợ chồng chị H anh C không có tài sản chung, công nợ chung.
Hiện nay anh C không có nhà, đã đi làm ăn tại miền nam. Địa chỉ cụ thể thì anh Cường không cho ông biết. Ông nhận các giấy tờ tố tụng của Tòa án và xin chịu trách nhiệm thông báo lại cụ thể lại cho anh C.
Theo biên bản xác minh lần 2 ngày 28/8/2017: Ông Ngọ Văn Q là bố đẻ của anh Ngọ Văn C trình bày: Vào tháng 7/2017 ông đã vào miền Nam làm ăn và thăm anh C. Ông đã trao đổi với anh C về việc chị H làm đơn xin ly hôn. Sau khi nghe thông tin anh nói trách vợ phản bội anh và không muốn về giải quyết, vì tình cảm vợ chồng đã hết. Tòa án cứ theo luật giải quyết vắng mặt theo yêu cầu của chị H. Sau đó anh C bỏ đi nơi khác làm ăn và không cho ông biết địa chỉ. Còn địa chỉ cũ là ở công trường ông không biết.
Tại phiên tòa xét xử công khai hôm nay anh C vắng mặt, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn và nuôi con, chị rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Đại diện VKS phát biểu quan điểm: Về Tố tụng: Quá trình thiết lập hồ sơ vụ án Thẩm phán, HĐXX đã thực hiện đúng theo quy định tại điều 48,49 Bộ luật TTDS. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại điều 70,71, điều 234 bộ luật TTDS. Bị đơn chưa thực hiện đúng về quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung: Căn cứ Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 điều 227, khoản 4 Điều 147, điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP TANDTC ngày 03/12/2012 và Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP TANDTC ngày 05/5/2017 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX: Chấp nhận chị Ngọ Thị H được ly hôn anh Ngọ Văn C. Về con chung: Giao cháu Ngọ Thị Kim H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, phần cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu. Về tài sản và công nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét. Về án phí: Chị H phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.
Kiến nghị khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
{1}Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết anh C không có mặt tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú. Hiện tại anh C đang làm ăn tại miền Nam nhưng địa chỉ ở đâu thì không cho nguyên đơn và gia đình biết địa chỉ cụ thể. Toà án đã giao các văn bản tố tụng cho bố mẹ đẻ của anh C để họ giao cho C. Đồng thời, niêm yết công khai các thủ tục tố tụng theo quy định. Ông Q bố đẻ anh C đã gặp anh C và trao đổi cụ thể về việc Tòa án đang giải quyết ly hôn, yêu cầu anh C về giải quyết ly hôn.
Anh C đã biết việc Toà án đang giải quyết việc ly hôn của mình, nhưng vẫn không về và cũng cố tình không cung cấp địa chỉ nơi ở và làm việc hiện nay cho Toà án. Như vậy, đây thuộc trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Căn cứ khoản 6 điều 9 Nghị quyết 05/2012/NQ - HĐTP TANDTC ngày 03/12/2012 và điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ - HĐTP TANDTC ngày 05/5/2017; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Toà án tiến hành giải quyết theo thủ tục chung.
{2}Về Hôn nhân: Chị H và anh C xây dựng hạnh phúc trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi, đăng ký kết hôn. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do trong cuộc sống chung giữa chị H và anh C là do anh C không chăm lo và quan tâm gì đến vợ con. Đi làm nhưng không gửi tiền về nuôi vợ con, về nhà còn đánh đập chị. Khi mâu thuẫn xảy ra hai bên còn thiếu kinh nghiệm sống nên không biết cách giàn xếp, điều hòa mâu thuẫn. Từ nguyên nhân trên dẫn đến cuộc sống chung không có hạnh phúc. Hai bên sống ly thân từ tháng 8/2014 đến nay và không quan tâm đến nhau. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, phải dựa trên cơ sở tình cảm,sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Anh C không thực hiện tròn nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của mình nên để xảy ra mâu thuẫn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức độ trầm trọng, kéo dài. Hai bên không còn quan tâm đến nhau. Anh C không muốn về Toà án để hoà giải đoàn tụ, điều đó chứng tỏ, không tha thiết về cuộc sống chung với chị H. Vì vậy cho hai bên ly hôn là phù hợp.
{3}Về con chung: Chị H và anh C có 01 con chung. Cháu tên là Ngọ Thị Kim H, sinh ngày 13/8/2014. Hiện tại cháu H đang ở với chị H. Khi ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Anh C không về Tòa án giải quyết ly hôn, nên giao cho chị Hạnh nuôi con và ghi nhận không yêu cầu cấp dưỡng của chị H là phù hợp.
{4}Về tài sản và công nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng không có tài sản và công nợ chung, nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Vì vậy HĐXX không xem xét.
{5}Về án phí: Chị H làm đơn yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, theo quy định của pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 điều 227, khoản 4 Điều 147, điều 271, khoản 1 điều 273 Bộ luật TTDS năm 2015; Khoản 6 điều 9 Nghị quyết 05/2012/NQ - HĐTP TANDTC ngày 03/12/2012; điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ - HĐTP TANDTC ngày 05/5/2017. Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Tiểu mục 1.1, mục 1 phần II của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị Quyết.
- Tuyên xử:
Về Hôn nhân: Chấp nhận chị Ngọ Thị H được ly hôn anh Ngọ Văn C.
Về con chung: Giao cháu Ngọ Thị Kim H, sinh ngày 13/8/2014 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu.
Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.
Về tài sản và công nợ chung: Không có tài sản và công nợ chung, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về án phí: Chị Ngọ Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N C, theo biên lai thu số AA/2015/0006433 ngày 28/7/2017. Chấp nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí DSST.
Quyền kháng cáo: Tuyên quyền kháng cáo bản án cho nguyên đơn trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 47/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về tranh chấp hôn nhân gia đình
Số hiệu: | 47/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về