Bản án 466/2019/HSST ngày 19/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 466/2019/HSST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 624/2019/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5434/2019/QĐXXST–HS, ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Châu Minh T; Sinh ngày: 15/9/1992, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 14/20 đường Bửu Đình, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Châu Vĩ A và bà Nguyễn Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 31/8/2018 – Có mặt.

2. Phạm Bảo A; Sinh ngày: 14/4/1986, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 357/40B, đường Hậu Giang, Phường 11, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị H; Có vợ: Trần Thị Diệu H, sinh năm: 1996 (chưa đăng ký kết hôn) và 01 con, sinh năm: 2015; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 14/5/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tại bản án số 105/2007/HSST, đến ngày 30/7/2007 chấp hành xong hình phạt tù; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2019 – Có mặt.

- Bị hại:

1/ Ông Trần Chí T; sinh năm: 1954; trú tại: 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

2/ Anh Trần Chí L; sinh năm: 1988; trú tại: 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1/ Ông Trần Ngọc Hòa là Luật sư Công ty Luật TNHH Đại Việt, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Châu Minh T - Có mặt.

2/ Ông Nguyễn Văn Tài là Luật sư Văn phòng Luật sư Mai Trung Tín, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Phạm Bảo A - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Châu Minh T và Phạm Bảo A là bạn bè thường chơi games bắn cá cùng nhau. Khoảng 22 giờ ngày 22/7/2018 Phạm Bảo A đang ở nhà bạn là anh Lê Văn Q tại số 449/8 Lê Quang Sung, Phường 9, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh thì Châu Minh T gọi điện thoại rủ Phạm Bảo A đi trộm cắp tài sản, Phạm Bảo A đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 23/7/2018 Phạm Bảo A mượn xe gắn máy hiệu Vario biển số 59F1 – 913.65 của anh Lê Văn Q, chạy đến đón Châu Minh T tại tiệm games bắn cá số 24 đường Phan Anh, Phường 14, Quận 6, rồi chở Châu Minh T đi lòng vòng trên các tuyến đường tìm cơ hội để trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà số 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Bảo A dừng xe trước cửa nhà, mở yên xe lấy 01 cây tua vít (có sẵn trong cốp xe) để cạy phá ổ khóa cửa cổng, còn Châu Minh T ngồi trên xe cảnh giới. Trong lúc cạy phá ổ khóa cửa cổng, An nhìn thấy cổng nhà có gắn camera nên Phạm Bảo A đẩy camera quay sang hướng khác rồi tiếp tục dùng tua vít cạy phá ổ khóa. Sau khi phá được khóa cửa cổng, An vào bên trong sân nhà lục soát, tìm kiếm tài sản để lấy trộm nhưng không lấy được gì. An đi tới chiếc xe hiệu Toyota Venza biển số 51F – 845.76 đang đậu trong sân thì phát hiện thấy xe không khóa cửa, chìa khóa cắm trên ổ khóa xe nên Phạm Bảo A đi ra ngoài cổng nói Châu Minh T chạy xe máy sang đậu bên đường phía đối diện để Phạm Bảo A mở cửa cổng. Châu Minh T hỏi tại sao phải mở rộng cửa cổng thì Phạm Bảo A nói trong nhà không có tài sản gì để lấy, chỉ có chiếc xe ô tô bên trong có cắm chìa khóa, mở cửa cổng xong Phạm Bảo A quay vào trong sân, lên xe ô tô Venza biển số 51F – 845.76 điều khiển cho xe chạy ra đường Chiến Lược, hướng về đường Tân Hòa Đông, Tân chạy xe gắn máy theo sau. Cả hai chạy đến gầm cầu Ông Buông 2 thuộc phường 9, quận 6 thì dừng lại, cả hai cùng nhau lục lọi bên trong xe ô tô thì phát hiện trong xe có 01 chiếc bóp (ví), bên trong có giấy tờ cá nhân và số tiền 2.200.000 đồng, cả hai lấy tiền chia nhau mỗi người 1.100.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Sau đó Phạm Bảo A kêu Tân điều khiển xe gắn máy chạy về tiệm games bắn cá để Phạm Bảo A đi cất giấu xe ô tô, nên Châu Minh T lấy xe Vario chạy về tiệm bắn cá. Trên đường đi phát hiện trong xe ô tô có gắn camera hành trình, sợ bị camera ghi lại hình ảnh của Phạm Bảo A, nên Phạm Bảo A tháo camera vứt bỏ dọc đường cùng với chiếc bóp (ví) lấy trong xe (không nhớ địa điểm cụ thể). Khi đi đến bên hông nhà số 9, đường 34A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân thì Phạm Bảo A bỏ xe ô tô lại, đi xe ôm về đến giao lộ đường Phan Anh-Tân Hòa Đông thì gọi điện thoại cho Châu Minh T chạy xe gắn máy Vario đến, rồi An lấy xe Vario đem về trả cho anh Lê Văn Q, còn Châu Minh T đi về nhà (BL 146-150; 269-270). Đến sáng ngày 23/7/2018, gia đình ông Trần Chí T là chủ nhà số 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân phát hiện xe ô tô hiệu Toyota Venza biển số 51F – 845.76 bị mất trộm, nên trình báo Công an phường Bình Trị Đông.

Khoảng 16-17 giờ ngày 24/7/2018 người dân phát hiện thấy chiếc xe Toyota Venza biển số 51F – 845.76 để bên hông nhà số 9, đường 34A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, nhưng đến sáng ngày 25/7/2018 mới trình báo cơ quan công an thu giữ (BL 146-150; 269, 270).

Qua điều tra rà soát, ngày 31/8/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt giữ Châu Minh T, đến ngày 17/01/2019 Phạm Bảo A bị bắt.

Tại Cơ quan điều tra Châu Minh T và Phạm Bảo A đã khai nhận đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết luận định giá số 806/KL-HĐĐGTS, ngày 30/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thuộc UBND quận Bình Tân kết luận: Xe ô tô 5 chỗ hiệu Toyota Venza màu đen, biển số 51F – 845.76 đăng ký lần đầu năm 2009 có giá 800.000.000 đồng (BL 35).

Đối với anh Lê Văn Q là người đã cho Phạm Bảo A mượn chiếc xe gắn máy hiệu Vario biển số 59F1 – 913.65 sau đó An dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Phạm Bảo A khai anh Lê Văn Q không biết Phạm Bảo A mượn xe để làm phương tiện phạm tội. Hiện nay anh Quy không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được. Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy tìm, khi nào tìm được sẽ làm rõ và xem xét xử lý sau.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe Toyota Venza biển số 51F – 845.76, số máy: 1AR0146223, số khung: 11A19U015542. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Trần Chí T đứng tên sở hữu. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Trần Chí T, ông Trần Chí T đã nhận lại xe trên và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 camera hành trình; 01 chiếc bóp (ví) bên trong có giấy tờ tùy thân và số tiền 2.200.000 đồng không thu hồi được.

- 17 (mười bảy) khoen kim loại hình tròn màu vàng đồng, đường kính khoảng 01cm, có lỗ tròn ở giữa; 01 thanh kim loại hình trụ; 02 viên bi thu tại hiện trường nhà số 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 số 790174920423, mang tên Phạm Bảo A Phần dân sự: Ông Trần Chí T đã nhận lại được tài sản bị trộm cắp là chiếc xe ô tô hiệu Toyota Venza biển số 51F – 845.76. Riêng chiếc bóp (ví) bên trong có số tiền 2.200.000 đồng và một số giấy tờ của anh Trần Chí L để trong xe, các bị cáo chia nhau số tiền còn chiếc bóp vứt bỏ không thu hồi được. Bà Nguyễn Thị H (mẹ bị cáo Phạm Bảo A) đã tự nguyện bồi thường số tiền 3.000.000 đồng cho anh Trần Chí L. Ông Ông Trần Chí T và anh Trần Chí L không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 455/CT-VKS-P2 ngày 28 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP.Hồ Chí Minh, đã truy tố các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Châu Minh T mức hình phạt từ 10 đến 12 năm tù.

+ Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Bảo A mức hình phạt từ 10 đến 12 năm tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất các biện pháp xử lý vật chứng.

- Người bào chữa cho bị cáo Châu Minh T - Luật sư Trần Ngọc Hòa trình bày quan điểm bào chữa:

Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội danh “Trộm cắp tài sản” và khung hình phạt đối với bị cáo Tân, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết:

Bị cáo có nhân thân tốt lần đầu phạm tội, thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc, chưa xem xét đánh giá hết các tình tiết của vụ án. Mặc dù bị cáo là người rủ bị cáo An đi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo chỉ có vai trò hết sức hạn chế và mục đích của bị cáo là trộm cắp vặt chứ không có ý định lấy trộm xe ô tô. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Bảo A - Luật sư Nguyễn Văn Tài trình bày quan điểm bào chữa:

Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; đã tác động để gia đình bị cáo bồi thường cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại; có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tranh luận: Về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ mà các Luật sư nêu ra là thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nên không có ý kiến.

- Các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 22 giờ ngày 22/7/2018, Châu Minh T rủ Phạm Bảo A đi trộm cắp tài sản, An đồng ý. Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 23/7/2018 An dùng xe gắn máy chở Tân đi lòng vòng trên đường tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến nhà số 50 đường Chiến Lược phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Phạm Bảo A dừng lại xuống xe dùng tua vít phá khóa cửa cổng nhà, Tân ngồi trên xe cảnh giới, phá khóa cổng xong, Phạm Bảo A vào bên trong sân nhà lục soát tìm kiếm tài sản để lấy trộm nhưng không lấy được gì. Thấy có chiếc xe ô tô hiệu Toyota Venza đang đậu trong sân, cửa xe không khóa và chìa khóa còn cắm trên xe nên An đi ra mở rộng cửa cổng và kêu Tân chạy xe sang đứng phía bên kia đường, Châu Minh T hỏi để làm gì thì Phạm Bảo A nói nhà không có tài sản gì để lấy chỉ có chiếc xe ô tô cắm sẵn chìa khóa. Sau đó Phạm Bảo A vào trong sân nhà điều khiển xe ô tô chạy ra ngoài, Châu Minh T điều khiển xe gắn máy chạy theo sau. Khi chạy đến gầm cầu ông Buông 2, thuộc phường 9, quận 6 thì cả hai dừng lại và lục soát xe ô tô, thấy có 01 chiếc bóp (ví), bên trong có giấy tờ cá nhân và số tiền 2.200.000 đồng, cả hai chiếm đoạt số tiền chia nhau mỗi người 1.100.000 đồng. Sau đó Phạm Bảo A kêu Châu Minh T điều khiển xe gắn máy chạy về tiệm games bắn cá còn Phạm Bảo A đi cất giấu xe ô tô. Trên đường đi phát hiện trong xe ô tô có gắn camera hành trình nên An tháo ra vứt bỏ dọc đường cùng với chiếc bóp (ví) rồi đem bỏ xe tại hông nhà số 9, đường 34A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, sau đó Phạm Bảo A đi xe ôm về tiệm games bắn cá gặp Châu Minh T lấy xe máy đem đi trả, còn Châu Minh T đi về nhà.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản, chiếc xe ô tô Toyota Venza màu đen biển số 51F-845.76 có trị giá 800.000.000 đồng.

Các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe ô tô Toyota Venza màu đen biển số 51F-845.76 có trị giá 800.000.000 đồng và chiếc bóp bên trong có giấy tờ cá nhân và số tiền 2.200.000 đồng tại nhà số 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân. Nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt xe ô tô và tài sản để trên xe là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên các bị cáo đã cố ý phạm tội. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, lợi dụng sơ hở của chủ xe khi để xe ô tô trong sân nhà mà không khóa xe, các bị cáo đã lén lút phá khóa cửa cổng vào bên trong sân để chiếm đoạt chiếc xe và tài sản trên xe trị giá 802.200.000 đồng, chứng tỏ ý thức coi thường pháp luật và quyết tâm cao của các bị cáo khi phạm tội.

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội. Xét vai trò của các bị cáo thì thấy rằng bị cáo Tân là người chủ động rủ bị cáo An, sau đó làm nhiệm vụ cảnh giới cho An thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bị cáo An khi được bị cáo Tân rủ đi trộm cắp tài sản đã đồng ý tham gia một cách tích cực, là người dùng phương tiện xe gắn máy của mình chở Tân tiếp cận tài sản, sau đó trực tiếp phá khóa cổng để thực hiện hành vi trộm cắp, nên vai trò của hai bị cáo là ngang nhau.

Về nhân thân: Bị cáo Phạm Bảo A là người có nhân thân xấu. Ngày 14/5/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tại bản án số 105/2007/HSST, đến ngày 30/7/2007 chấp hành xong hình phạt tù. Mặc dù tiền án này đã được xóa nhưng đây cũng là điều cần lưu ý đối với bị cáo khi lượng hình.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét quan điểm của các luật sư bào chữa cho bị cáo và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về các tình tiết của vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ mà các Luật sư và đại diện Viện kiểm sát đã nêu là thống nhất với nhau và có cơ sở, nên chấp nhận. Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Châu Minh T theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51; cho bị cáo Phạm Bảo A theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét cả hai bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà cáo trạng đã truy tố cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo.

Đối với anh Lê Văn Q là người đã cho Phạm Bảo A mượn chiếc xe gắn máy hiệu Vario biển số 59F1 – 913.65 làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên An khai anh Quy không biết An mượn xe để làm phương tiện phạm tội. Hiện nay anh Quy không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được. Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy tìm, khi nào tìm được sẽ làm rõ và xem xét xử lý sau

 [3] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là chiếc xe ô tô hiệu Toyota Venza màu đen biển số 51F-845.76, qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Trần Chí T đứng tên sở hữu. Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi xe trả lại ông Trần Chí T, ông Trần Chí T đã nhận lại xe ô tô nêu trên và không yêu cầu bồi thường gì thêm (Bút lục 309).

Riêng đối với chiếc Camera hành trình gắn trên xe ô tô bị Phạm Bảo A tháo bỏ trên đường, không thu hồi được, ông Trần Chí T khai nhận là loại Camera rẻ tiền ông không nhớ rõ thương hiệu và thời gian mua nên từ chối định giá và không yêu cầu bồi thường.

Đối với 01 chiếc bóp (ví), bên trong có giấy tờ cá nhân và số tiền 2.200.000 đồng của anh Trần Chí L để trên xe, bị các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A chiếm đoạt tiền chia nhau tiêu xài còn chiếc bóp (ví), bên trong có giấy tờ cá nhân vứt bỏ không thu hồi được. Ngày 23/8/2019 bị cáo Phạm Bảo A đã tác động gia đình đứng ra bồi thường cho ông Trần Chí T và anh Trần Chí L số tiền 3.000.000 đồng, ông Trần Chí T và anh Trần Chí L không còn yêu bồi thường gì khác. Bị cáo Phạm Bảo A cam kết tự nguyện một mình bồi thường toàn bộ số tiền 3.000.000 đồng cho bị hại mà không yêu cầu bị cáo Tân phải cùng chịu nghĩa vụ bồi thường.

Về trách nhiệm dân sự đã được giải quyết xong, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng trong vụ án gồm có:

- Chiếc xe ô tô hiệu Toyota Venza màu đen biển số 51F-845.76 đã được thu hồi trả lại bị hại; 01 Camera hành trình gắn trên xe ô tô Venza; 01 chiếc bóp (ví) bên trong có giấy tờ tùy thân và số tiền 2.200.000 đồng, không thu hồi được, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

- Đối với 17 (mười bảy) khoen kim loại hình tròn màu vàng đồng, đường kính khoảng 01cm, có lỗ tròn ở giữa; 01 thanh kim loại hình trụ và 02 viên bi kim loại thu tại hiện trường nhà số 50 đường Chiến Lược, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, là những vật không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Phạm Bảo A số 790174920423 thu giữ của bị cáo An, không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho bị cáo An.

[6] Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: C á c b ị cáo; B ị h ạ i có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về hình phạt:

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Châu Minh T 09 (chín) năm tù về tội: "Trộm cắp tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày 31 tháng 8 năm 2018.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Bảo A 09 (chín) năm tù về tội: "Trộm cắp tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 01 năm 2019.

[2] Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 17 (mười bảy) khoen kim loại hình tròn màu vàng đồng, đường kính khoảng 01cm, có lỗ tròn ở giữa; 01 thanh kim loại hình trụ và 02 viên bi kim loại.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Bảo A 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Phạm Bảo A số 790174920423 (Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 415/19 ngày 22/8/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;

Buộc các bị cáo Châu Minh T, Phạm Bảo A, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

[5] Về quyền kháng cáo:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 466/2019/HSST ngày 19/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:466/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;