Bản án 463/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 463/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 349/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 552/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 571/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Bà Hồ Thị Tiểu L, sinh năm 1997; địa chỉ: Ấp AK, xã KA, huyện AP, tỉnh An Giang.

Bị đơn Ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph, sinh năm 1995; địa chỉ: Ấp AK, xã KA, huyện AP, tỉnh An Giang.

Bà L vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, ông Ph vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 18/8/2020 của bà Hồ Thị Tiểu L;

các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông Ph được mai mối nên đi đến hôn nhân vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP (theo bản sao Trích lục kết hôn số 96/TLKH-BS ngày 04/10/2018 của Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP).

Sau khi kết hôn, bà L và ông Ph sinh sống tại gia đình ông Ph ở xã KA, huyện AP. Chung sống với nhau khoảng 02 tháng thì bà L có thai và mâu thuẫn cũng bắt đầu phát sinh từ đây. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Ph không có sự quan tâm chăm sóc vợ con, bản thân ông Ph làm tài xế lái xe, thu nhập mỗi tháng 5.000.000 đồng không đủ tiêu xài cho bản thân nhưng lại chơi đá gà, vay tiền trên mạng dẫn đến nợ nần, nhiều lần chủ nợ điện thoại cho tôi, cha bà L và các cậu để đòi tiền. Bà L đã nhiều lần khuyên nhủ ông Ph nhưng ông Ph vẫn không thay đổi. Bên cạnh đó, do không có thời gian tìm hiểu nên khi chung sống, bà L và ông Ph phát sinh nhiều bất đồng quan điểm sống.

Đến tháng 04/2020 thì bà L về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Khoảng thời gian sống ly thân thì ông Ph có qua nhà để động viên bà L trở về và hứa sẽ thay đổi bản thân. Gia đình ông Ph cũng đến gia đình bà L động viên, hòa giải. Nhưng gia đình bà L không đồng ý để cho bà L về chung sống với ông Ph. Bản thân bà L cũng muốn cho ông Ph cơ hội sửa đổi, động viên ông Ph qua nhà nói chuyện với cha mẹ bà L nhưng ông Ph không đồng ý.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà L yêu cầu được ly hôn với ông Ph.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà L và ông Ph sinh được một con chung tên Nguyễn Hoàng Kim A, sinh ngày 07/6/2019. Con chung hiện đang chung sống cùng bà L.

Bà L yêu cầu được nuôi dạy con chung, không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành triệu tập ông Ph để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 21/10/2020 nhưng ông Ph vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Ph, ông Ph cũng không cung cấp bản tự khai cho Tòa án.

Ngày 22/10/2020, bà L có đơn yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ, yêu cầu không tiến hành hòa giải và xin được vắng mặt khi vụ án được đưa ra xét xử do nhà xa, có con nhỏ.

Tòa án cũng đã ban hành Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ số 1212/TB-TA ngày 30/10/2020 và đã thông báo cho bà L, ông Ph biết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

- Về tài liệu, chứng cứ:

Tài liệu, chứng cứ do bà L giao nộp: Bản tự khai ngày 18/8/2020; bản sao Trích lục kết hôn số 96/TLKH-BS ngày 04/10/2020 của Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP; bản sao Giấy khai sinh mang tên Nguyễn Hoàng Kim A, sinh ngày 07/6/2019; bản photo Giấy chứng minh nhân dân mang tên Hồ Thị Tiểu L; bản chính Đơn yêu cầu ngày 21/10/2020.

Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Biên bản lấy lời khai người làm chứng bà Trần Thị H ngày 21/10/2020; biên bản xác minh ngày 30/10/2020.

Tại phiên tòa, do bà L và ông Ph cùng vắng mặt nên Hội đồng xét xử công bố lời trình bày của bà L, biên bản lấy lời khai người làm chứng bà Trần Thị H, biên bản xác minh tại ban ấp AK, xã KA, huyện AP ngày 30/10/2020 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

- Theo biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 22/10/2020, bà Trần Thị H cho biết: Bà H là bà nội của bà Hồ Thị Tiểu L, sinh năm 1997. Bà H chung sống cùng bà L và gia đình nên biết rõ mâu thuẫn tình cảm giữa bà L và ông Ph.

Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông Ph do mai mối nên đi đến hôn nhân vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP.

Sau khi kết hôn, bà L và ông Ph sinh sống tại gia đình ông Ph ở xã KA, huyện AP. Đến tháng 04/2020 thì bà L về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Lúc đó gia đình có hỏi thăm thì được bà L cho biết do ông Ph không có sự quan tâm chăm sóc vợ con, ông Ph còn ham chơi và có vay tiền bên ngoài dẫn đến nợ nần, bà L đã nhiều lần khuyên can nhưng ông Ph không thay đổi. Do đó, bà L và ông Ph sống ly thân nhau. Khoảng thời gian sống ly thân thì ông Ph có qua nhà để động viên bà L trở về và hứa sẽ thay đổi bản thân. Gia đình ông Ph cũng có qua gia đình nhưng chỉ đòi rước cháu nội về chứ không nói chuyện rõ ràng để hàn gắn tình cảm cho bà L và ông Ph. Bản thân bà L cũng muốn cho ông Ph cơ hội sửa đổi nhưng gia đình ông Ph và bản thân ông Ph cũng không có thiện chí hàn gắn.

Bà H yêu cầu Tòa án sớm giải quyết cho bà L được ly hôn ông Ph.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà L và ông Ph sinh được một con chung tên Nguyễn Hoàng Kim A, sinh ngày 07/6/2019. Con chung hiện đang chung sống cùng bà L. Yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không rõ.

Do nhà xa, sức khỏe yếu nên bà H yêu cầu được vắng mặt khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

- Theo Biên bản xác minh tại Ban ấp AK, xã KA ngày 30/10/2020 có sự xác nhận của Công an xã KA, đại diện ban ấp An Khánh cho biết: Ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph, sinh năm 1995 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: Ấp AK, xã KA, huyện AP, tỉnh An Giang và thường xuyên sinh sống tại địa phương. Quá trình sinh sống tại địa phương, qua tìm hiểu được biết ông Ph và bà L chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Ph cờ bạc (chơi đá gà, số đề) dẫn đến nợ nần. Cả hai đã sống ly thân nhau, gia đình có hòa giải nhưng ông Ph và bà L không hàn gắn tình cảm.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Ông Ph vắng mặt lần thứ hai không lý do; bà L có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải và yêu cầu xét xử vắng mặt; người làm chứng bà Trần Thị Hồng đã có lời khai trực tiếp với Tòa án và có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định tại Điều 207, Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Theo trình bày của bà L và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định hôn nhân giữa bà L và ông Ph đã đến mức trầm trọng, cả hai đã sống ly thân nhau và không hàn gắn tình cảm, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và yêu cầu được nuôi dạy con chung của bà L, không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung, đương sự khai không có nên không xem xét, giải quyết.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án; không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bị đơn ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph đều vắng mặt không lý do; đồng thời, ông Ph đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không lý do. Như vậy, ông Ph đã tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình. Nguyên đơn bà Hồ Thị Tiểu L có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; người làm chứng bà Trần Thị Hồng có yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, vụ án được xem là không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 228, Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thẩm quyền giải quyết:

Hôn nhân giữa bà L và ông Ph có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 96 ngày 04/10/2018. Ông Ph có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Ấp AK, xã KA, huyện AP, tỉnh An Giang nên vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang theo quy định tại các điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và quy định tại Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà L cho rằng, quá trình chung sống không hạnh Ph, nguyên nhân là do ông Ph không có sự quan tâm đến vợ con, cờ bạc, vay tiền dẫn đến nợ nần. Bà L đã nhiều lần khuyên nhủ ông Ph nhưng ông Ph vẫn không thay đổi. Bên cạnh đó, do không có thời gian tìm hiểu nên khi chung sống, bà L và ông Ph phát sinh nhiều bất đồng quan điểm sống. Gia đình có hòa giải, động viên cho cả hai nhưng cũng không hàn gắn được. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh Ph nên bà L yêu cầu được ly hôn với ông Ph. Những mâu thuẫn mà bà L trình bày được bà Trần Thị Hồng xác nhận trong biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 21/10/2020 và đại diện ban ấp AK, xã KA xác nhận trong biên bản xác minh ngày 30/10/2020 .

Nam nữ khi tiến đến hôn nhân đều hướng đến mục đích là xây dựng gia đình hạnh Ph, bền vững nhưng giữa bà L và ông Ph lại tồn tại những mâu thuẫn không thể hàn gắn dẫn đến đời sống hôn nhân không hạnh Ph. Việc ông Ph thiếu sự quan tâm đến gia đình, cờ bạc dẫn đến nợ nần mặc dù bà L đã khuyên can đã cho thấy sự vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Bên cạnh đó, bà L và ông Ph đã sống ly thân nhau từ tháng 04/2020 cho đến nay, mặc dù gia đình đã hòa giải, động viên nhưng cả hai cũng không thể hàn gắn tình cảm. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa bà L và ông Ph đã đến mức trầm trọng, đời sống hôn nhân không hạnh Ph, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà L và ông Ph sinh được 01 (một) con chung tên: Nguyễn Hoàng Kim A, sinh ngày 07/6/2009. Hiện con chung đang sinh sống cùng bà L. Khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi dạy con chung, không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi xem xét điều kiện nuôi con của bà L, ông Ph cũng như sự đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quyết định để bà L được trực tiếp nuôi dạy con chung.

Bà L không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã giải thích cho bà L về quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với người không trực tiếp nuôi con chung, cũng như nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con chung, nhưng bà L vẫn giữ nguyên ý kiến của mình. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định công nhận sự tự nguyện của bà L trong việc không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng để nuôi dạy con chung.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Ông Ph cùng các thành viên trong gia đình (nếu có) phải tôn trọng quyền được nuôi con của bà L. Ngược lại, bà L cùng các thành viên trong gia đình (nếu có) không được cản trở ông Ph trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà L xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tuy nhiên, nếu sau này ông Ph có yêu cầu về tài sản chung, nợ chung thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác:

Bà L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; ông Ph không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự không phải chịu các chi phí tố tụng khác.

[5] Về quyền kháng cáo: Bà L và ông Ph có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các điều 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Tiểu L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị Tiểu L được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph.

2. Về con chung: Bà Hồ Thị Tiểu L được trực tiếp nuôi dạy con chung tên: Nguyễn Hoàng Kim A, sinh ngày 07/6/2019. Ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph không phải cấp dưỡng để nuôi dạy con chung.

Ông Ph cùng các thành viên trong gia đình (nếu có) phải tôn trọng quyền được nuôi con của bà L. Ngược lại, bà L cùng các thành viên trong gia đình (nếu có) không được cản trở ông Ph trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác: Bà L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí mà bà L đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2019/0004794 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Ông Ph không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Các đương sự không phải chịu các chi phí tố tụng khác.

4. Về quyền kháng cáo: Án tuyên công khai vắng mặt bà L và ông Ph. Bà L và ông Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Giấy chứng nhận kết hôn số 96 ngày 04/10/2018 của Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP cấp cho bà Hồ Thị Tiểu L và ông Nguyễn Hoàng Bảo Ph (theo bản sao Trích lục kết hôn số 96/TLKH-BS ngày 04/10/2018 của Ủy ban nhân dân xã KA, huyện AP) không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 463/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:463/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;