Bản án 463/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 463/2019/HS-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 600/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5163/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/VƯƠNG THẾ P, sinh ngày 21/02/1998 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 45/88/20P BT, Phường N, Quận M, thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đã cư trú: 83 Liên khu 16-18, tỉnh lộ 10, phường BTD, quận BT, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn H và bà: Vương Huệ N; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 14/9/2017, bị Tòa án nhân dân Quận H xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số 138/HSST), chưa được xóa án tích; tiền sự: Không;

Tạm giam ngày 05/6/2019.

2/NGUYỄN MINH K, sinh ngày 13/11/1998 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 45/15E PPT, Phường B, Quận R, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không rõ và bà: Nguyễn Thị Mỹ L; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;

Tạm giam ngày 05/6/2019.

Bị hại: Chị Imelda Safril Z, sinh ngày: 16/5/1981; Quốc tịch: Indonesia Chỗ ở: 4A-2204 Estella 1, xa lộ HN, phường AP, Quận U, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14h ngày 05/6/2019, tại trước số 161 ĐK, BN, Quận h, Nguyễn Minh K điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave màu xanh biển số 59K2-42999 chở Vương Thế P ngồi sau. Khi P nhìn thấy chị Imelda Safril Z đứng trên lề đường trên tay chị đang cầm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, P đã nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại trên. P nói với K quay đầu xe lại để giật điện thoại thì K đồng ý. K chở P chạy vòng ra sau lưng chị Imelda Safril Z rồi chạy lên áp sát phía trước mặt chị Imelda Safril Z để P ngồi sau nhanh chóng dùng tay phải giật lấy điện thoại trên tay chị Imelda Safril Z và tăng ga bỏ chạy. Tuy nhiên, chị Imelda Safril Z kịp thời nắm được áo của P kéo lại làm P và xe cùng ngã xuống đường, chiếc điện thoại P đang cầm trên tay bị văng ra rơi xuống đường. K đứng dậy bỏ chạy còn P giằng co với chị Imelda Safril Z. Lúc này, với sự hỗ trợ của anh Hoàng Văn Bình, anh Lê Bình Nguyên đã bắt giữ được P cùng tang vật giao Công an phường BN, Quận h. Sau đó khoảng 15 phút, Nguyễn Minh K được ông Nguyễn Trí H hỗ trợ bắt giữ giao cho Công an phường BN, Quận h lập biên bản phạm tội quả tang cùng với P.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 4474/HĐĐGTS ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp thành phố kết luận: 01 điện thoại Iphone 8 Plus, màu hồng, 64GB số imei 3529800982888043 đã qua sử dụng theo giá trị thị trường tại thời điểm định giá ngày 05/6/2019 là 10.703.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho bị hại.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 59K2-429.99 số máy JA39E0966296, số khung RLHJA3913KY110785, đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động của xe. Qua xác minh chiếc xe mô tô nêu trên do Nguyễn Minh Klà chủ sở hữu;

- 01 điện thoại di động màu đen mặt lưng điện thoại ghi dòng chữ “SAMSUNG” số imei 1: 357931090538658, số imei 2: 357932090538656 đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động, xe thu giữ của Vương Thế P.

Về dân sự: Chị Imelda Safril Z đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu iphone 8 Plus màu hồng 65GB và không yêu cầu bồi thường. Tại Bản cáo trạng số: 433/CT-VKS-P2 ngày 18/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Vương Thế P, Nguyễn Minh K về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo Vương Thế P 04-05 năm tù, Nguyễn Minh K 03-04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Bị cáo Vương Thế P, Nguyễn Minh K thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại chị Imelda Safril Z đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường đồng thời vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của các bị cáo:

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời ki của bị hại, người làm chứng, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào khoảng 14h, ngày 05/6/2019 tại trước số 161 ĐK, BN, Quận h, Nguyễn Minh K điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave màu xanh biển số 59K2-42999 chở Vương Thế P ngồi sau. Khi P nhìn thấy chị Imelda Safril Z đứng trên lề đường trên tay chị đang cầm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, P đã nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại và rủ K cùng thực hiện thì K đồng ý. K cho xe áp sát phía trước mặt chị Imelda Safril Z để P ngồi sau nhanh chóng dùng tay phải giật lấy điện thoại trên tay chị Imelda Safril Z rồi tăng ga bỏ chạy. Theo Kết luận định giá tài sản số 4474/HĐĐGTS ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp thành phố thì 01 điện thoại Iphone 8 Plus, màu hồng, 64GB có trị giá 10.703.000 đồng.

Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo P, K đã phạm tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Với việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là xe gắn máy, có tính nguy hiểm cao, có thể xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của bị hại cũng như những người dân đang lưu thông trên đường nên cần áp dụng tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm mới có giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo P, K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Riêng bị cáo Vương Thế P đã có 01 tiền án bị Tòa án nhân dân Quận k, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số 138/HSST ngày 14/9/2017), chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Imelda Safril Z đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 59K2- 429.99 số máy JA39E0966296, số khung RLHJA3913KY110785, không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra. Qua xác minh chiếc xe mô tô nêu trên do Nguyễn Minh K là chủ sở hữu. Chiếc xe này bị cáo K cùng với P sử dụng làm phương tiện phạm tội do đó cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ Đối với 01 điện thoại di động màu đen mặt lưng điện thoại ghi dòng chữ “SAMSUNG” số IMEI 1: 357931090538658, số IMEI 2: 357932090538656 đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động, thu giữ của Vương Thế P. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo không có liên quan đến hành vi phạm tội do đó cần giao trả lại cho bị cáo P. [6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Vương Thế P 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh K 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với 01 xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 59K2-429.99 số máy JA39E0966296, số khung RLHJA3913KY110785, không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra.

+ Giao trả cho bị cáo Vương Thế P 01 điện thoại di động màu đen, mặt lưng điện thoại ghi dòng chữ “SAMSUNG” số IMEI 1: 357931090538658, số IMEI 2: 357932090538656 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 43/20 ngày 01/11/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh)

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo P, K nộp 200.000 (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 463/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:463/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;