Bản án 46/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 145/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc“Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 19 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Nhựt T, sinh năm 1991. Địa chỉ: Ấp Thị T1, xã Hòa M, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Chị Võ Ánh N, sinh năm 1995. Địa chỉ: Ấp Thị T1, xã Hòa M, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Đỗ Văn L - Công ty luật TNHH Phát V.

Địa chỉ: R7 Ba Vì, phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn là anh Nguyễn Nhựt T trình bày:

- Về hôn nhân: Năm 2011 được sự đồng ý của cha mẹ hai bên, anh và chị Võ Ánh N thành vợ chồng chính thức (không có đăng ký kết hôn). Trong quá trình chung sống anh và chị N có với nhau hai người con chung thì chị N bỏ nhà ra đi. Ngày 09/01/2020 Tòa án nhân dân huyện Cái Nước giải quyết thủ tục ly hôn.

Ngày 10/7/2020, anh và chị N tái hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa M, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Khi đăng ký kết hôn xong thì vợ chồng anh lại tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và ly thân với nhau từ tháng 8/2020 cho đến nay. Với nguyên nhân trên, anh T xác định không thể chung sống hạnh phúc với chị N, anh yêu cầu Tòa án cho anh được ly hôn với chị Võ Ánh N.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh và chị N có 02 người con chung: Nguyễn Anh T2, sinh ngày 08/3/2011 và Nguyễn Nhựt T3, sinh ngày 08/5/2014. Hiện các con đang sống với anh, sau khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung, nợ riêng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bị đơn là chị Võ Ánh N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Nhựt T qua quen biết, tìm hiểu thì kết hôn với nhau vào năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa M, huyện Cái Nước. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, cùng nhau làm ăn, chăm lo xây dựng gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, đến tháng 9/2019, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, chị có xin chồng là anh T lên Sài Gòn tìm việc làm và được anh T đồng ý. Khi lên Sài Gòn tìm việc làm chị đều gửi tiền về cho chồng nuôi con.

Đến tháng 02/2021, chị phát hiện anh T có người phụ nữ khác và tổ chức đám cưới với người ta. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống vợ chồng không thể kéo dài, anh T yêu cầu ly hôn, chị đồng ý.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh và chị N có 02 người con chung: Nguyễn Anh T2, sinh ngày 08/3/2011 và Nguyễn Nhựt T3, sinh ngày 08/5/2014. Hiện hai con đang sống cùng gia đình chồng, sau khi ly hôn chị yêu cầu được quyền nuôi cháu Nguyễn Nhựt T3 và giao cháu Nguyễn Anh T2 cho anh T nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con và cũng không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung, nợ riêng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn là anh Nguyễn Nhựt T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, về con chung anh yêu cầu xem xét nguyện vọng của hai cháu T2 và T3, con theo ai thì người đó nuôi dưỡng.

- Bị đơn là chị Võ Ánh N giữ nguyên ý kiến, đồng ý yêu cầu ly hôn với anh T. Về con chung, chị không đồng ý giao cả hai cháu T2 và T3 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng; chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nhựt T3, sinh ngày 08/5/2014, chị đồng ý giao cháu Nguyễn Anh T2, sinh ngày 08/3/2022 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Đối với số tiền 107.000.000 đồng chị cho rằng thời gian chị đi làm xa có gửi về cho anh T để cất nhà. Tại phiên tòa, chị xác định rút lại không yêu cầu nữa.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là ông Đỗ Văn L trình bày: Về hôn nhân: Anh Nguyễn Nhựt T và chị Võ Ánh N là vợ chồng hợp pháp, được pháp luật công nhận. Quá trình chung sống, khi chưa ly hôn với chị N, anh T lại có hành vi tổ chức đám cưới với người khác, điều đó đã vi phạm chế độ một vợ một chồng mà pháp luật quy định. Hiện tại, chị N và anh T đã không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của các đương sự, cho chị N được ly hôn với anh T. Về con chung: Chị N có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nhựt T3, chị N có đủ điều kiện để nuôi con, thu nhập cao và ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của chị N. Về tài sản chung và nợ chung, chị N xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa anh Nguyễn Nhựt T và chị Võ Ánh N là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc“Xin ly hôn và nuôi con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; Anh T và chị N đều có địa chỉ cư trú tại ấp Thị T1, xã Hòa M, huyện Cái Nước, do đó Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh T trình bày, được sự đồng ý của cha mẹ hai bên, anh và chị Võ Ánh N thành vợ chồng chính thức (không có đăng ký kết hôn) từ năm 2011. Trong quá trình chung sống anh và chị N có với nhau hai người con chung thì chị N bỏ nhà ra đi. Ngày 09/01/2020 Tòa án nhân dân huyện Cái Nước giải quyết thủ tục ly hôn. Đến ngày 10/7/2020, anh và chị N tái hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa M, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Khi đăng ký kết hôn xong thì vợ chồng anh lại tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và ly thân với nhau từ tháng 8/2020 cho đến nay.

Đối với chị N thì cho rằng: Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, cùng nhau làm ăn, chăm lo xây dựng gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, đến tháng 9/2019, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, chị có xin chồng là anh T lên Sài Gòn tìm việc làm và được anh T đồng ý. Khi lên Sài Gòn tìm việc làm chị đều gửi tiền về cho chồng nuôi con. Đến tháng 02/2021, chị phát hiện anh T có người phụ nữ khác và tổ chức đám cưới. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, anh T yêu cầu ly hôn thì chị đồng ý.

[3] Xét lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh T và chị N đã trình bày không thống nhất nhau về mâu thuẫn gia đình. Xét thấy, mâu thuẫn của anh T và chị N đã phát sinh từ năm 2019, nên chị N có đơn yêu cầu xin ly hôn với anh T và đã được Tòa án nhân dân huyện Cái Nước giải quyết, do không có đăng ký kết hôn nên Tòa án đã tuyên bố không công nhận anh T và chị N là vợ chồng (theo Bản án số 05/2020/HNGĐ-ST ngày 09/01/2020 của TAND huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau). Sau khi tái hôn, anh T và chị N có đăng ký kết hôn nhưng mâu thuẫn vợ chồng của anh T, chị N không được cải thiện, anh T và chị N đều xác nhận đã ly thân từ tháng 8/2020. Điều đó cho thấy tình trạng hôn nhân của anh, chị đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu này của các đương sự là phù hợp.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống anh T và chị N có 02 người con chung: Nguyễn Anh T2, sinh ngày 08/3/2011 và Nguyễn Nhựt T3, sinh ngày 08/5/2014. Sau khi ly hôn, anh T có yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng cháu T2 và cháu T3, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Chị N yêu cầu sau khi ly hôn chị được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Nhựt T3 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu T3 và chị cũng không cấp dưỡng nuôi cháu T2.

Xét yêu cầu nuôi con chung của các đương sự thấy rằng: Theo quy định của pháp luật, thì “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên…”; “V, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…”.

Xét về điều kiện vật chất, qua trình bày và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy hiện nay các đương sự đều có điều kiện kinh tế và thu nhập ổn định nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn của các đương sự là như nhau.

Xét về các điều kiện khác, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu Nguyễn Anh T2 và cháu Nguyễn Nhựt T3 đã do anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ khi chị N rời đi. Thời gian qua, dù không có chị N, anh T đã chăm sóc, nuôi dưỡng tốt cho cháu T2 và cháu T3. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình thì:“... con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Hiện tại, cháu T2 đã được 11 tuổi và cháu T3 gần tròn 08 tuổi. Căn cứ vào biên bản ghi nhận ý kiến ngày 21/02/2022, sau khi anh T và chị N ly hôn thì cháu T2 và cháu T3 có nguyện vọng sống cùng cha là anh Nguyễn Nhựt T. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất, tâm sinh lý và không gây xáo trộn cho cuộc sống hiện tại của hai cháu cần tiếp tục giao hai cháu T2 và T3 cho anh T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Sau này, nếu chị N có căn cứ cho rằng anh T không đảm bảo điều kiện nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con bằng một vụ án khác.

Do đó, yêu cầu của chị N và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T3 không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Anh T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về nợ chung, nợ riêng: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Đối với số tiền 107.000.000 đồng, chị N cho rằng quá trình đi làm ăn xa, chị có gửi về cho anh T để cất nhà nhưng anh T đã sử dụng để tổ chức đám cưới với người khác, chị yêu cầu anh T phải trả cho chị số tiền nêu trên. Xét thấy, tại phiên tòa anh T không thừa nhận có nhận số tiền nêu trên từ chị N và chị N không có căn cứ chứng minh là đã đưa tiền cho anh T, đồng thời chị N cũng không có làm đơn phản tố và dự nộp án phí theo quy định; do đó không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét. Trường hợp sau này chị N có căn cứ chứng minh được, có thể khởi kiện anh T bằng một vụ án khác.

[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Nguyễn Nhựt T phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Nhựt T. Cho anh T được ly hôn với chị Võ Ánh N.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Anh T2, sinh ngày 08/3/2011 và cháu Nguyễn Nhựt T3, sinh ngày 08/5/2014 cho anh T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.

Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh T và chị N không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung, nợ riêng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh T phải chịu là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006263 ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước (đã nộp xong).

Chị Võ Ánh N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007504 ngày 02 tháng 4 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;