Bản án 46/2021/HS-ST ngày 12/03/2021 về tội cướp giật tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA 

BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2021/HS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐST-HS ngày 26 tháng 2 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Bá T, sinh năm 1986 tại Hà Nội; Giới tính: Nam Trú tại: Thôn N, xã T, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Trình độ học vấn: 9/12

Nghề nghiệp: Không

Con ông Nguyễn Bá T1 và bà Nguyễn Thị P

- Tiền án: 02

+ Ngày 23/9/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù, cho hưởng treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2011/HSST (đã chấp hành phần án phí).

+ Ngày 26/9/2011, Nguyễn Bá T thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 20/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 08 năm tù về hành vi phạm tội này theo Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2012/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 26/5/2018 (đã chấp hành phần án phí).

Tiền sự: không

Bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2020 đến nay. Có mặt

2. Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc S1), sinh năm: 1983 tại Khánh Hòa. Giới tính: Nam

Trú tại: Lô 179, ô 8 Đ, phường V, thành phố Nha Trang

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Trình độ học vấn: 5/12

Nghề nghiệp: Không

Con ông Nguyễn Văn Th (tên gọi khác Nguyễn Ngọc Th) và bà Huỳnh Thị M

Tiền án: 01

Ngày 10/5/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 7 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2012/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 26/4/2018 (đã chấp hành phần án phí).

Tiền sự: Không

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa

* Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1986 Trú tại: số 7/1 L, phường P, thành phố Nha Trang, vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1990

Trú tại: Lô 73 khu H, phường V, thành phố Nha Trang, vắng mặt

2. Bà Lê Thị L, sinh năm 1983

Trú tại: số 49 K, phường p, thành phố Nha Trang, vắng mặt

* Người làm chứng:

1. Ông Vũ Bá B, sinh năm 1981

Trú tại: 80 đường Nguyễn C, phường V, thành phố Nha Trang, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 29/5/2020, Nguyễn Ngọc S điều khiển xe máy nhãn hiệu Kaiser, biển kiểm soát 79N9-1633, cùng với đối tượng “Thu” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) điều khiển xe máy hiệu Attila (không rõ biển kiểm soát) và Nguyễn Bá T đi đến khu vực Công viên bãi biển Hòn Chồng, đường Phạm Văn Đồng, thành phố Nha Trang nhằm mục đích tìm ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp, cướp giật. Tại đây, cả ba đối tượng dựng xe trên vỉa hè công viên, chia nhau đi bộ tìm ai để tài sản sơ hở thì thực hiện hành vi phạm tội.

Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, khi đi đến Công viên bờ biển trước khách sạn Thanh Bình 2, số 10 đường Phạm Văn Đồng, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang, nhóm đối tượng phát hiện chị Nguyễn Thị Hoài T (sinh năm: 1986; trú tại: 7/1 đường Lê Quý Đôn, phường Phước Tiến, thành phố Nha Trang) đang ngồi trên ghế đá, bên cạnh để 01 giỏ xách (bên trong có: 01 chai kem dưỡng da màu trắng, hiệu P.Rem; 01 sáp chống muỗi, hiệu Rana; 02 thỏi son màu đỏ; 01 lọ kem chống nắng; 02 thẻ nhựa cứng; 01 khẩu trang; số tiền: 11.825.000 Việt Nam đồng) nên nảy sinh ý định cướp giật chiếc túi xách này. Lúc này, cả nhóm bàn bạc như sau: S khởi động xe máy nhãn hiệu Kaiser, biển kiểm soát 79N9- 1633 chờ sẵn; Thu quan sát, cảnh giới, khi thấy chị T sơ hở sẽ ra tín hiệu bằng cách gật đầu, T sẽ chạy tới giật túi xách của người phụ nữ trên rồi chạy đến cho S chở đi. Sau khi cả ba thống nhất, S đi đến nơi dựng xe máy nhãn hiệu Kaiser, biển kiểm soát 79N9-1633, khởi động xe, chờ sẵn ngoài đường Phạm Văn Đồng; T đi đến lại gần nơi chị T ngồi. Khi thấy chị T để túi xách ở trên ghế đá, vừa đứng lên cầm điện thoại di động chụp ảnh, cách ghế đá khoảng chừng 3m, Thu ra hiệu cho T bằng cách “gật đầu”, T liền chạy đến dùng tay giật giỏ xách và chạy nhanh đến chỗ S. Lúc này, chị T phát hiện bị mất túi xách nên truy hô “Cướp, cướp” và chạy đuổi theo T. S điều khiển xe chở T đi được một đoạn khoảng 30 mét theo hướng về phía cầu vượt thì bị lực lượng Công an đang đi tuần tra cùng người dân bắt giữ được được T, S và toàn bộ tang vật. Đối tượng “Thu” chạy thoát, không bắt giữ được.

Theo văn bản số 360/HĐĐG ngày 04/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang thì không có cơ sở để định giá tài sản đối với những tài sản mà Nguyễn Bá T, Nguyễn Ngọc S đã chiếm đoạt được của chị Nguyễn Thị Hoài T.

Tại bản Cáo trạng số 46/CT-VKSNT ngày 28/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Bá T, Nguyễn Ngọc S về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Bá T; xử phạt bị cáo T mức án từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù

- Căn cứ khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S; xử phạt bị cáo S mức án từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù.

* Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết; xử lý vật chứng: buộc các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng. Xét thấy việc vắng mặt của các đương sự không gây ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.

2]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là có tính khách quan và hợp pháp.

[3] Về nội dung:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Bá T, Nguyễn Ngọc S khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc như bản cáo trạng đã truy tố.

Lời khai nhận tội của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo thực hiện hành vi giật tài sản của bị hại và nhanh chóng tẩu thoát đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người rủ rê và trực tiếp lấy tài sản, còn bị cáo S là người giúp sức tích cực khi đứng cảnh giới. Do đó, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là như nhau. Xét về nhân thân, các bị cáo đều đã từng bị tòa án đưa ra xét xử nhưng vẫn không lấy đó làm bài học để cải tạo hoàn lương mà vẫn tiếp tục phạm tội mới, trong đó bị cáo T có nhân thân xấu hơn bị cáo S. Vì vậy Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T mức án cao hơn bị cáo S để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản được thu hồi trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

6]. Về trách nhiệm dân sự.

Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết

7]. Đối với lời khai nhận của Nguyễn Bá T về việc vào ngày 25/5/2020, cũng tại khu vực Công viên bờ biển Hòn Chồng, Nguyễn Bá T cùng với “Thu” và đối tượng “Móm” (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đã thực hiện việc cướp giật 01 túi xách của 01 người phụ nữ. Sau khi cướp giật được, T được Thu chia cho 250.000 đồng, Móm chia cho 200.000 đồng, số tiền này T đã tiêu dùng cá nhân hết.

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nha Trang đã tiến hành điều tra, xác minh. Tuy nhiên, tại các BL 147, 147A, 148, Công an phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang xác nhận không có đối tượng nào tên “Thu, “Móm” tại địa bàn và Cơ quan công an chua tiếp nhận nguồn tin báo của người dân về việc bị cướp giật các tài sản nói trên. Do chưa xác định được bị hại của vụ cướp giật này nên chua đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Bá T. Do đó, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nha Trang tiếp tục xác minh làm rõ đối với đối tượng tên “Thu”, “Móm” người đã cùng bị cáo T tham gia vào các vụ cướp giật tài sản. Nếu có đủ cơ sở thì xử lý trong vụ án hình sự khác.

6]. Về vật chứng vụ án.

- Vật chứng đã xử lý trong giai đoạn điều tra, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Đối với chiếc xe máy hiệu Kaiser, biển kiểm soát 79N9-1633, là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc cướp giật tài sản:

Tại Biên bản lấy lời khai (BL 143) bà Nguyễn Thị Thanh Tr khai nhận bà Tr mua chiếc xe trên tại một cửa hàng bán xe máy cũ trên đường 2/4, sau đó cho anh ruột là Nguyễn Ngọc Sản làm phương tiện đi lại. Tuy nhiên, bà Tr không cung cấp được Hợp đồng mua bán xe.

Theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 01/7/2020 của Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Khánh Hòa thì chiếc xe máy trên thuộc sở hữu của bà Lê Thị L, sinh năm 1983, trú tại: 49 Kiến Thiết, phường Phước Hòa, thành phố Nha Trang, tại Biên bản xác minh ngày 26/9/2020, Công an phường Phước Hòa, thành phố Nha Trang xác nhận, đương sự Lê Thị L, sinh năm 1983 hiện không sinh sống tại địa chỉ 49 Kiến Thiết, Phước Hòa, Nha Trang, đi đâu địa phương không biết.

Do chưa xác định được nguồn gốc và chủ sở hữu/quản lý/sử dụng hợp pháp chiếc xe máy hiệu Kaiser, biển kiểm soát 79N9-1633 nên Hội đồng xét xử giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Nguyễn Bá T:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bá T 2 (hai) năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020

- Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc Sản);

Xử phạt: Bị cáo Nguyên Ngọc S (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc Sản) 2 (hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020

* Về trách nhiệm dân sự.

- Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh Tr không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

- Tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Thị L có đơn yêu cầu.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật đối với chiếc xe máy dạng Wave màu xanh, biển kiểm soát 79N9-1633, số máy: SMH4T104515, số khung: CH054UM004515 (tình trạng như lúc ban đầu bị tạm giữ, không kiểm tra chất lượng bên trong); dung tích xi lanh 109, giàn nhựa bị bể, hiệu Kaiser.

Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; bị cáo Nguyễn Bá T và Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc Sản) mỗi người phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HS-ST ngày 12/03/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;