Bản án 46/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021, đối với:

1. Bị cáo: Trần Thị N, sinh năm 1963 tại tỉnh Kiên Giang. Hộ khẩu thường trú: không đăng ký thường trú; Chỗ ở: không có nơi ở nhất định. Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trần Văn T (đã chết), mẹ: Nguyễn Thị H (đã chết); Chồng, con: không có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 18-10-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V. (có mặt)

2. Bị hại: Chị Phan Thị K, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số 4x đường P, Phường MH, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18-10-2020, Trần Thị N đi lang thang tại khu vực chợ tạm trên đường P, Phường MH, thành phố V thì thấy chị Phan Thị K đi chợ có mặc áo khoác và thấy trong túi áo khoác của chị K có tiền nên N liền đi tới sát chị K giả vờ mua cá rồi thò tay lén lút lấy tiền trong túi áo khoác của chị K, chưa kịp cất giấu thì bị tri hô bắt quả tang cùng số tiền 13.840.000đ. Tại Cơ quan điều tra N đã khai báo toàn bộ hành vi nêu trên.

- Chị Phan Thị K đã nhận lại số tiền 13.840.000đ không có yêu cầu gì thêm.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 12-01-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Trần Thị N, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Trần Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản Cáo trạng và lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18-10-2020 tại khu vực chợ tạm trên đường P, Phường MH, thành phố V, Trần Thị N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Phan Thị K số tiền 13.840.000đ (Mười ba triệu, tám trăm bốn mươi ngàn đồng). Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Trần Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản nên cần phải xử phạt nghiêm nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên căn cứ điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng: Không.

[6] Trách nhiệm dân sự: Không.

[7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, điều luật và mức hình phạt áp dụng là có căn cứ phù hợp với các tình tiết của vụ án nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Trần Thị N 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 18-10-2020.

2. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;