Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đồng Thị N, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn T1, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Đội 1, xã K huyện K1, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn T1, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện, tại Bản tự khai, nguyên đơn là chị Đồng Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Phạm Văn T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 2010. Sau khi kết hôn, chị về chung sống cùng gia đình anh T ở thôn T1, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến khoảng tháng 10 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, nên thường xuyên xảy ra đánh cãi chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên nội ngoại hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng, nên từ năm 2015 đến nay chị đã về cư trú cùng mẹ đẻ chị ở Đội 1, xã K, huyện K1, tỉnh Hải Dương, sống ly thân với anh T. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Văn T.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn T có hai con chung là Phạm Anh T2, sinh ngày 25 tháng 4 năm 2012 và Phạm Thị Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2014 Hiện tại con chung Phạm Anh T2 do anh T nuôi dưỡng, con chung Phạm Thị Q do chị nuôi dưỡng. Chị đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Anh T2 cho anh nuôi dưỡng; giao con chung Phạm Thị Q cho chị nuôi dưỡng.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Phạm Văn T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T để anh T đến Toà án nhân dân huyện An Dương giải quyết việc chị Đồng Thị N xin ly hôn nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, xử cho chị Đồng Thị N được ly hôn anh Phạm Văn T. Về con chung: Giao cho chị N nuôi dưỡng con chung Phạm Thị Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2014; giao cho anh T nuôi dưỡng con chung Phạm Anh T2, sinh ngày 25 tháng 7 năm 2012. Không giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản. Chị Đồng Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Đồng Thị N có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Phạm Văn T. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Phạm Văn T hiện đang cư trú tại thôn T1, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, chị Đồng Thị N vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1, khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện An Dương tiến hành xét xử vắng mặt chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 28 tháng 9 năm 2011, nên theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Tuy anh Phạm Văn T không đến Tòa án, nên không có quan điểm của anh T về việc chị Đồng Thị N xin ly hôn, nhưng căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ cơ sở xác định: Quá trình chung sống, chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T đã phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Xét quan hệ hôn nhân của chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị xin được ly hôn của chị Đồng Thị N đối với anh Phạm Văn T.

[5] Về con chung: Chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T có hai con chung là Phạm Anh T2, sinh ngày 25 tháng 7 năm 2012 và Phạm Thị Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2014. Chị N đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Anh T2 cho anh T nuôi dưỡng; giao con chung Phạm Thị Q cho chị nuôi dưỡng. Anh T không có quan điểm về việc nuôi con. Con chung Phạm Anh T2 có nguyện vọng được ở với bố. Xét thấy, hiện tại chị N và anh T đều có nghề nghiệp là công nhân nên khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung của anh T và chị N như nhau. Vì vậy, cần giao cho chị N và anh T mỗi người nuôi dưỡng một con chung là hợp lý. Con chung Phạm Anh T2 đang ở với anh T, con chung Phạm Thị Q đang do chị N nuôi dưỡng đã ổn định; con chung Phạm Thị Q nhỏ hơn cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn. Nên để đảm bảo quyền lợi cho con chung, cần giao cho chị N nuôi dưỡng cho chung Phạm Thị Q, giao cho anh T nuôi dưỡng con chung Phạm Anh T2.

[6] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Đồng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Phạm Văn T không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Tòa án không giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, khi nào các đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[7] Về tài sản chung: Chị Đồng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Phạm Văn T không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[8] Về án phí sơ thẩm: Chị Đồng Thị N là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Chị Đồng Thị N và anh Phạm Văn T được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đồng Thị N được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Thị Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2014 cho chị Đồng Thị N nuôi dưỡng; giao con chung Phạm Anh T2, sinh ngày 25 tháng 7 năm 2012 cho anh Phạm Văn T nuôi dưỡng.

3. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Đồng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Phạm Văn T không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Tòa án không giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, khi nào các đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung: Chị Đồng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Phạm Văn T không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

5. Về án phí: Chị Đồng Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn chị N đã nộp theo Biên lai thu tiền số 13091 ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương. Chị Đồng Thị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;