Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị N - Sinh n¨m 1978.

Bị đơn: Anh Trần B - Sinh năm 1974.

Cùng HKTT: SN 25/22 đường H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa Cùng nơi ở hiện nay: 01 A/9 đường N, phường Đ, thành phố T, tỉnh thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị N, anh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh B kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và đăng ký kết hôn tại UBND phường S, thị xã S, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2001. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B thường xuyên uống rượu say làm ảnh hưởng đến cuộc sống và tinh thần của các thành viên trong gia đình. Giữa vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị N và anh B đã có thời gian ly thân nhưng anh B vẫn không có sự thay đổi. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả.

Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh B.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu: Trần Diệp L, sinh ngày 31/7/2002 và cháu Trần Minh Q, sinh ngày 27/3/2015. Cháu L đã thành niên nên ở với ai là quyền của cháu, chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ly hôn, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi cháu Q, không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng.

- Về tài sản, công nợ: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án anh Trần B trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Anh B trình bày thống nhất với chị N về thời gian, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh. Mặc dù vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nhưng anh B mong muốn chị N bỏ qua để vợ chồng quay về đoàn tụ nuôi dạy con cái. Nếu chị N cứ cương quyết ly hôn, anh B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung như chị N đã trình bày là đúng. Cháu L đã thành niên nên ở với ai là quyền của cháu. Ly hôn, anh B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Q, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng.

- Về tài sản, công nợ: Anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết * Qua xác minh tại địa phương thể hiện: Quá trình anh B, chị N sinh sống tại địa phương vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B thường xuyên uống rượu dẫn đến trong cuộc sống vợ chồng xảy ra va chạm. Nay chị N làm đơn khởi kiện ly hôn anh B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên tòa hôm nay, chị N giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung:

đề nghị Tòa án giao cháu Q cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung; về tài sản công nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quan điểm của anh B: về hôn nhân, sau nhiều lần hòa giải, xét thấy tình cảm vợ chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh thống nhất đồng ý ly hôn với chị N, về con chung và tài sản, công nợ anh vẫn giữ quan điểm như đã trình bày.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Thanh Hóa. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Chị N và anh B kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Cả hai anh chị đều thừa nhận quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B thường xuyên uống rượu dẫn đến vợ chồng thường xảy ra va chạm. Qua xác minh tại địa phương và các chứng cứ khác có trong hồ sơ cho thấy đầu năm 2020 chị N đã từng làm đơn khởi kiện xin ly hôn đối với anh B, sau đó chị N đã rút đơn khởi kiện để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ, tuy nhiên anh B vẫn không có sự thay đổi. Nay chị N đề nghị được ly hôn đối với anh B thì anh cũng đồng ý. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và cùng thống nhất ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân gia đình để xử công nhận thuận tình ly hôn cho chị N và anh B.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu: Trần Diệp L, sinh ngày 31/7/2002 và cháu Trần Minh Q, sinh ngày 27/3/2015. Cháu L đã thành niên nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ly hôn, chị N và anh B đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Q, và không yêu cầu cấp dưỡng. Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của anh B, chị N đều chính đáng. Việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau ly hôn là trách nhiệm của cha mẹ. Tuy nhiên, độ tuổi của cháu Q còn nhỏ, việc giao cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải xem xét mọi mặt, đảm bảo quyền lợi của cháu. Chị N có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Q. Mặt khác xác minh ở địa phương cho thấy tình trạng anh B thường xuyên uống rượu và hiện anh B đang trong quá trình điều trị bệnh. Do vậy, để đảm bảo cuộc sống tốt nhất về mọi mặt vật chất cũng như tinh thần khi bố mẹ ly hôn. Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao cháu Q cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.

Về tài sản, công nợ: Chị N, anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị N và anh Trần B Về con chung: Chị Trần Thị N và anh Trần B có 02 con chung là cháu: Trần Diệp L, sinh ngày 31/7/2002 và cháu Trần Minh Q, sinh ngày 27/3/2015. Cháu L đã thành niên nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Giao cháu Q cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị N.

Anh B có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: Anh B và chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị N nộp theo biên lai số AA/2019/0012754 ngày 25/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố T (chị N đã nộp đủ án phí).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;