Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:

 676/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 356/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 302/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trần Thị Mỹ C, sinh năm: 1986 Địa chỉ: ấp H, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Trần Thanh T, sinh năm: 1987 Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà Trần Thị Mỹ C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Trần Thanh T vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 15 tháng 6 năm 2020, bản tự khai ngày 14 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ C trình bày:

Bà và ông Trần Thanh T bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2008, có tổ chức đám cưới do hai bên tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10/4/2008. Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường, không có mâu thuẫn gì xảy ra. Đến năm 2020 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dù là những chuyện nhỏ nhặt nhất, ông T hay đi sớm về muộn, không tôn trọng gia đình bên vợ, vợ chồng gặp mặt là xảy ra cãi vã làm cho tinh thần bà chịu nhiều áp lực và mệt mỏi. Hai bên đã sống ly thân từ ngày 23/3/2020 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, đời sống chung không hạnh phúc do đó bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thanh H, sinh ngày 26/10/2008 và Trần Hiếu H1, sinh ngày 26/10/2016. Hiện trẻ H và trẻ H1 đang sống cùng bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ H và trẻ H1, bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Trần Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Trần Thị Mỹ C khởi kiện xin ly hôn với ông Trần Thanh T, đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào kết quả xác minh của Công an xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn ông Trần Thanh T có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do đó căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Trần Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà C và ông T theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Ông Trần Thanh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa xét xử, không gửi văn bản cho biết ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên ông T đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên ông T phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu xin ly hôn, bản tự khai của bà C và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết vụ án.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Mỹ C và ông Trần Thanh T có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 75, quyển số 01/2008, đăng ký ngày 10/4/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị Mỹ C và ông Trần Thanh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Xét yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Mỹ C: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ C xác nhận trong thời gian chung sống với ông T thì vợ chồng bà có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dù là những chuyện nhỏ nhặt nhất, ông T hay đi sớm về muộn, không tôn trọng gia đình bên vợ, vợ chồng gặp mặt là xảy ra cãi vã làm cho tinh thần bà chịu nhiều áp lực và mệt mỏi cho nên hai bên đã sống ly thân từ ngày 23/3/2020 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông T.

[6] Theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại Công văn số 2295/UBND ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung như sau: “…Tại thời điểm xác minh, ông Trần Thanh T không có mặt tại nơi cư trú. Do đó UBND xã Hưng Long không nắm rõ tình trạng hôn nhân của ông Trần Thanh T và bà Trần Thị Mỹ C, nên không có cơ sở trả lời theo yêu cầu xác minh…” [7] Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng như sau:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2.Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng”.

[8] Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án quyết định cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[9] Hội đồng xét xử nhận thấy bà C và ông T đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay. Mặc dù Ủy ban nhân dân xã Hưng Long không nắm rõ tình trạng hôn nhân của bà C và ông T nhưng xét về mặt tình nghĩa vợ chồng thì hiện tại bà C và ông T đã không còn chung sống dẫn đến việc vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, không cùng nhau chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình. Mặt khác, do ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham dự các phiên hòa giải và các phiên tòa nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do, không đến Tòa án để thể hiện mong muốn hàn gắn tình cảm với bà C. Điều này cho thấy ông T không có thiện chí để Tòa án tiến hành hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ và đồng thời chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa bà C và ông T đã không còn. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà C và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được cho nên cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, bà C yêu cầu ly hôn với ông T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về con chung: Bà C xác nhận bà và ông T có 02 con chung tên Trần Thanh H, sinh ngày 26/10/2008 và Trần Hiếu H1, sinh ngày 26/10/2016. Hiện trẻ H và trẻ H đang sống cùng bà C. Khi ly hôn, bà C yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ H và trẻ H1, bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

[11] Tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[12] Theo trình bày của bà C trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì hiện tại trẻ Trần Thanh H và trẻ Trần Hiếu H1 đang sống cùng với bà C. Đồng thời, tại biên bản ghi nhận ý kiến thì trẻ H trình bày nếu ba mẹ ly hôn thì trẻ H có nguyện vọng sống với mẹ (bà C). Mặt khác, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên đã tự từ bỏ quyền chứng minh điều kiện, khả năng chăm sóc con chung nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của bà C, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Hiện tại trẻ Hiều và trẻ H còn nhỏ tuổi nên xét quyền lợi về mọi mặt của các trẻ thì Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao trẻ Trần Thanh H và trẻ Trần Hiếu H1 cho bà C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà C về việc bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con chung; nếu sau này các đương sự có sự tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[13] Về tài sản chung và nợ chung: Do bà Trần Thị Mỹ C xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[14] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Mỹ C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 8, 9, Điều 19, Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Mỹ C về việc yêu cầu ly hôn với ông Trần Thanh T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Mỹ C được ly hôn với ông Trần Thanh T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 75, quyển số 01/2008, đăng ký ngày 10/4/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Bà Trần Thị Mỹ C và ông Trần Thanh T có 02 (hai) con chung tên Trần Thanh H, sinh ngày 26/10/2008 và Trần Hiếu H1, sinh ngày 26/10/2016.

Giao trẻ Trần Thanh H và trẻ Trần Hiếu H1 cho bà Trần Thị Mỹ C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung đối với ông Trần Thanh T.

Ông Trần Thanh T được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Mỹ C xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Mỹ C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà bà Trần Thị Mỹ C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0079611 ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Thị Mỹ C đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Trần Thị Mỹ C và ông Trần Thanh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;