Bản án 46/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tg, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Quàng Văn Th, tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 05 tháng 01 năm 1999, tại xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản Pha Nàng, xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn Xn, sinh năm 1972 và con bà Quàng Thị N, sinh năm 1969. Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/7/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tg, tỉnh Điện Biên xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng; chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/3/2020 đến ngày 30/3/2020, tạm giam từ ngày 30/3/2020 cho đến nay, có mặt.

2. Lê Văn T, tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 01 tháng 4 năm 1982, tại xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản Minh Thắng, xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp:

Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Ch (đã chết) và con bà Bùi Thị Dg, sinh năm 1950. Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

Chưa bị Tòa án xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/3/2020 đến ngày 30/3/2020, tạm giam từ ngày 30/3/2020 cho đến nay, có mặt.

3. Lường Thị Xn, tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 09 tháng 7 năm 1987, tại huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản Cọ, xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Ư, sinh năm 1952 và con bà Quàng Thị M (đã chết). Có chồng là Lường Văn Th, sinh năm 1985; bị cáo có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị Tòa án xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ 11 giờ 05 phút ngày 28/3/2020 đến 16 giờ 20 phút ngày 28/3/2020, bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ 16 giờ 20 phút, ngày 28/3/2020 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội Dg vụ án được tóm tắt như sau: Do nghiện chất ma túy và hám lợi từ việc bán trái phép chất ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 27/3/2020, Quàng Văn Th đi bộ từ nhà đến nhà Lê Văn T để nhờ T mua ma túy cho Th để sử dụng và bán, Th đưa cho T 2.000.0000 đồng. Do nghiện chất ma túy, biết sẽ được trả công bằng ma túy nên T đồng ý mua HeroiN hộ Th. T cầm tiền đếm đủ 2.000.000 đồng và hỏi Th sao mua nhiều thế, Th nói mua để dùng và bán. T đi bộ đến khu vực bản Cọ, xã QN thì gặp một người phụ nữ không biết tên tuổi địa chỉ ở ven đường. Qua trao đổi T mua được 01 gói HeroiN được gói bằng túi nilon màu trắng với giá 1.800.000 đồng và T bớt lại 200.000 đồng để sử dụng cá nhân. T cầm gói ma túy về nhà T đưa cho Th. Th mở ra cấu lấy một ít HeroiN cho vào mảnh giấy bạc của vỏ bao thuốc lá Thăng Long đưa cho T rồi đi về nhà. Về đến nhà, Th vào nhà vệ sinh dùng dao lam cắt một ít HeroiN ra sử dụng, sau đó Th cắt các ống hút nhựa với nhiều màu sắc khác nhau thành 11 đoạn nhỏ, dùng bật lửa hơ gắn kín một đầu và dùng dao lam cắt cục HeroiN ra cho vào 11 đoạn ống nhựa rồi gắn kín lại, còn 01 cục Th gói lại bằng túi nilon màu trắng. Trong lúc đang gắn ống nhựa thì có một người đàn ông Th không biết tên, tuổi, địa chỉ đến hỏi mua 50.000 đồng HeroiN, Th nhận 50.000 đồng rồi lấy một đoạn ống nhựa màu xanh nước biển có chứa HeroiN đưa cho người đó. Sau đó Th tiếp tục gắn đến hồi 17 giờ cùng ngày Th vừa gắn xong các ống nhựa chứa HeroiN thì bị tổ công tác Công an huyện Tg bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm, 01 gói nilon màu trắng và 10 đoạn ống nhựa đều có chứa HeroiN, tổng khối lượng là 1,29 gam và tạm giữ trên người Th số tiền 170.000 đồng.

Đối với Lê Văn T, khi Th đi về T đã sử dụng hết số HeroiN Th đưa. Đến khoảng 15 giờ ngày 27/3/2020 T đi bộ từ nhà đến nhà của Lường Thị Xn, sinh năm 1987, trú tại: bản Cọ, xã QN, huyện Tg mua 100.000 đồng HeroiN để sử dụng. Mua được heroiN của Xn, T cầm gói HeroiN đi về nhà sử dụng hết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày T tiếp tục đến nhà Xn mua 01 viên ma túy tổng hợp với giá 50.000đ (năm mươi nghìn) để sử dụng. Mua được ma túy đi về nhà, trên đường về T mua bánh và nước hết 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Về đến nhà T cất gói ma túy trong túi áo khoác treo ở tường nhà đến 20 giờ 25 phút ngày 27/3/2020 thì T bị Công an huyện Tg bắt quả tang thu giữ 01 viên ma túy tổng hợp (MethamphetamiN) có khối lượng 0,13 gam.

Căn cứ lời khai của Lê Văn T, hồi 08 giờ 20 phút ngày 28/3/2020 cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tg T hành khám xét khẩn cấp đối với người, nơi ở của Lường Thị Xn thu giữ của Xn 03 gói nilon màu hồng bên trong đều chứa HeroiN, tổng khối lượng là 0,79 gam. Bị cáo Lường Thị Xn khai nhận vào khoảng 12 giờ ngày 27/3/2020 khi Xn đang ở nhà thì có một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ đến hỏi Xn có mua ma túy người đó bán cho. Do hám lợi từ việc bán trái phép chất ma túy nên bị cáo Xn đồng ý mua. Qua trao đổi, bị cáo Xn mua được của người đó 02 gói nilon màu xanh, trong đó 01 gói chứa HeroiN và 01 gói chứa 05 viên ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng. Mua được bị cáo Xn dùng tay chia gói HeroiN thành 04 gói nhỏ gói bằng các mảnh nilon màu hồng và cất cùng với 05 viên ma túy tổng hợp trong hòm gạo. Đến 15 giờ cùng ngày bị cáo Xn đã bán cho Lê Văn T 01 gói HeroiN với giá 100.000 đồng và đến 19 giờ cùng ngày Xn bán cho T 01 viên ma túy tổng hợp với giá 50.000 đồng. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27/3/2020 bị cáo Xn tiếp tục bán 04 viên ma túy tổng hợp cho một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 160.000 đồng. Tổng số tiền bán ma túy Xn đã mua thƯ ăn hết.

Trong ngày 27/3/2020 và ngày 28/3/2020, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tg T hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Lê Văn T, Quàng Văn Th và Lường Thị Xn:

- 01 gói nilon bên trong chứa 01 viên nén màu hồng (thu giữ khi bắt quả tang Lê Văn T) có khối lượng 0,13 gam, trích khối lượng 0,04 gam làm mẫu trưng cầu giám định.

- 10 ống nhựa, chứa chất bột màu trắng (thu giữ khi bắt quả tang Quàng Văn Th) có khối lượng 1,29 gam, trích khối lượng 0,07 gam làm mẫu trưng cầu giám định.

- 03 gói bột màu trắng (thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại nhà Lường Thị Xn) có khối lượng 0,79 gam, trích khối lượng 0,05 gam làm mẫu trưng cầu giám định.

Tại các bản Kết luận giám định số 304/GĐ-PC09 ngày 06/4/2020, số 312/GĐ- PC09 và số 313/GĐ-PC09 ngày 08 tháng 04 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn Th gửi giám định là chất ma túy: Loại HeroiN. Khối lượng vật chứng thu giữ của Quàng Văn Th là 1,29 gam.

- Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lê Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại methamphetamiN. Khối lượng vật chứng thu giữ của Lê Văn T là 0,13 gam.

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lường Thị Xn gửi giám định là chất ma túy: Loại HeroiN. Khối lượng vật chứng thu giữ của Lường Thị Xn là 0,79 gam.

Cáo trạng số: 49/CT-VKSTG ngày 07 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tg đã truy tố bị cáo Quàng Văn Th về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lê Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lường Thị Xn về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai phù hợp với lời khai tại cơ quan cảnh sát điều tra và thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như nội Dg bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tg giữ nguyên nội Dg bản cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Th phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 17 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Quàng Văn Th từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 55, Điều 17 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội từ 03 (ba) năm 06 tháng đến 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Tuyên bố bị cáo Lường Thị Xn phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lường Thị Xn từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

các điểm a, b, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy, một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 1,22 gam heroiN, 01 mảnh nilon màu trắng, 10 đoạn ống nhựa và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Quàng Văn Th. Một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 0,09 gam MethamphetamiN, 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Lê Văn T. Một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 0,74 gam heroiN, 03 mảnh nilon màu hồng và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Lường Thị Xn. Trả lại cho bị cáo Quàng Văn Th 170.000đ (một trăm bảy mươi nghìn). Tịch thu số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) bị cáo Lường Thị Xn đã bán ma túy mà có nộp ngân sách Nhà nước.

Miễn án phí hình sự theo quy định cho các bị cáo.

Các bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến bào chữa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội Dg vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ căn cứ kết luận hồi 17 giờ 00 phút ngày 27/3/2020, tại bản Pha Nàng, xã QN, huyện Tg, tỉnh Điện Biên. Bị cáo Quàng Văn Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,29 gam HeroiN nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Số ma túy này là do bị cáo nhờ bị cáo Lê Văn T mua hộ cho bị cáo Th để được trả công bằng ma túy sử dụng, khi nhận lời mua hộ ma túy cho bị cáo Th, bị cáo T biết rõ mục đích bị cáo Th mua ma túy để nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời và sử dụng. Hành vi trên của các bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 251 quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Bị cáo Lê Văn T đồng phạm với bị cáo Quàng Văn Th về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Cũng có đủ cơ sở kết luận hồi 20 giờ 25 phút ngày 27/3/2020 bị cáo Lê Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,13 gam MethamphetamiN nhằm mục đích sử dụng, như vậy hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) HeroiN, CocaiN, MethamphetamiN, AmphetamiN, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Nguồn gốc số MethamphetamiN là do bị cáo Lê Văn T mua của bị cáo Lường Thị Xn vào hồi 19 giờ ngày 27/3/2020. Trên cơ sở lời khai của bị cáo Lê Văn T và lời khai nhận tội của bị cáo Lường Thị Xn, đủ căn cứ xác định vào hồi 15 giờ và 19 giờ cùng ngày 27/3/2020, bị cáo Lường Thị Xn đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Lê Văn T, hành vi trên của bị cáo Lường Thị Xn đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Khoản 2 Điều 251 quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;” Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Bản cáo trạng số 49/CT- VKSTG ngày 07/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tg truy tố bị cáo Quàng Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo Lê Văn T về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lường Thị Xn về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

[2] Xét tính chất mƯ độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tiền chất ma túy. Đảng và nhà nước đã và đang có nhiều chính sách, biện pháp phòng chống, ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn, tội phạm ma túy nhưng vì Thếu ý thƯ tuân thủ pháp luật, ham lợi từ việc mua bán trái phép chất ma túy nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mƯ án nghiêm khắc đối với các bị cáo mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm. Cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định.

- Trong vụ án này bị cáo Quàng Văn Th, Lê Văn T đồng phạm về tội Mua bán trái phép chất ma túy nhưng là đồng phạm giản đơn nên cần căn cứ vào tính chất, mƯ độ để quyết định hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình bắt, điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Lường Thị Xn có bố đẻ là ông Lường Văn Ư được tặng thưởng huân chương Ch sĩ vẻ vang hạng ba và huy chương kháng Ch hạng nhì nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

- Đối với bị cáo Quàng Văn Th, năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tg xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Hủy hoại tài sản, bị cáo không có án tích nhưng đây được xem nhân thân xấu, do vậy khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần căn cứ vào tính chất mƯ độ, hành vi vi phạm để có mƯ án phù hợp với bị cáo.

[4] Các vấn đề khác:

- Đối với người phụ nữ mà bị cáo T khai ngày 27/3/2020 đã bán 1.800.000 đồng HeroiN cho T, người đàn ông mà bị cáo Th khai đã mua 50.000 đồng HeroiN của Th ngày 27/3/2020, người đàn ông bị cáo Xn khai ngày 27/3/2020 đã bán ma túy cho Xn và người đàn ông đã mua 160.000 đồng ma túy tổng hợp của Xn do các bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của bốn người này nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tg không có cơ sở để điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn) mà bị cáo Lường Thị Xn đã bán ma túy cho bị cáo Lê Văn T, mặc dù bị cáo đã chi tiêu hết nhưng đây là tiền hưởng lợi từ việc mua bán trái phép chất ma túy do vậy để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng).

[5] Vật chứng vụ án:

Đối với 1,22 gam heroiN thu giữ của Quàng Văn Th, 0,09 gam methamphetamiN thu giữ của Lê Văn T, 0,74 gam heroiN thu giữ của Lường Thị Xn còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, xét đây là loại hàng cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Trả lại cho bị cáo Quàng Văn Th 170.000đ (một trăm bảy mươi nghìn đồng).

[6] Án phí: Gia đình bị cáo Lê Văn T là hộ nghèo, các bị cáo Quàng Văn Th, Lường Thị Xn là người dân tộc Thểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tg, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tg, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng và người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố.

- Bị cáo Quàng Văn Th, Lường Thị Xn phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Bị cáo Lê Văn T phạm các tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy.

n cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38, Điều 17 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/3/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 55, Điều 38, Điều 17 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (một) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung cho hai tội là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/3/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lường Thị Xn 07 (bảy) năm tù. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ 11 giờ 05 phút ngày 28/3/2020 đến 16 giờ 20 phút ngày 28/3/2020 là 01 (một) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 06 (sáu) năm 11 (mười một) tháng 29 (hai mươi chín) ngày tù.

- Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy, một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 1,22 gam heroiN, 01 mảnh nilon màu trắng, 10 đoạn ống nhựa và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Quàng Văn Th. Một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 0,09 gam MethamphetamiN, 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Lê Văn T. Một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, gồm 0,74 gam heroiN, 03 mảnh nilon màu hồng và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng vụ của Lường Thị Xn.

Trả lại cho bị cáo Quàng Văn Th 170.000đ (một trăm bảy mươi nghìn).

Tịch thu số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) của bị cáo Lường Thị Xn nộp ngân sách Nhà nước, chưa thu được.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Th hành án dân sự huyện Tg, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Các bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 30/7/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;