TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1963 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản H, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn P và Con bà: Lò Thị L; Vợ: Lò Thị Đ; Con: Có 02 con: Con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Có 02 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy nhưng đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/8/2020, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 20/8/2020, Lò Văn Đ đi xe đạp đi từ nhà ở bản H, xã Th, huyện Đ đến bản N, xã Th, huyện Đ tìm mua Methamphetamine để sử dụng. Khi đi đến khu vực đầu đường thuộc bản N, xã Th, Đ gặp và mua được của một người thanh niên dân tộc Thái, khoảng 20 tuổi không rõ tên và địa chỉ 07 viên Methamphetamine màu hồng được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói xoắn lại với giá 230.000 đồng. Sau khi mua được Methamphetamine, Đ cầm ở tay phải rồi điều khiển xe đạp đi về nhà. Hồi 13 giờ cùng ngày, khi Lò Văn Đ đang điều khiển xe đạp đi đến khu vực bản H, xã Th, huyện Đ thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng Thanh Luông phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại tay phải Đ đang cầm một gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói được xoắn lại bên trong chứa 07 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 0,72 gam; thu giữ của Đ một chiếc xe đạp màu xanh.
Tại bản kết luận giám định số: 807/GĐ-PC09 ngày 29/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng vật chứng thu giữ của Đ gồm: 0,72 gam viên nén màu hồng (đã trích 0,2 gam gửi giám Đ không hoàn lại). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.
Về vật chứng của vụ án: Ngày 23/11/2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 0,52 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định và 01 chiếc xe đạp màu xanh đã qua sử dụng.
Bản cáo trạng số: 290/CT-VKSĐB ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn Đ với mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,72 gam Methamphetamine (đã trích 0,2 gam gửi giám định không hoàn lại) và tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe đạp màu xanh đã qua sử dụng.
* Về án phí: Theo quy Đtại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy Đvề mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn Đ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đnhư sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Lò Văn Đ khai nhận vào hồi 13 giờ ngày 20/8/2020, tại bản H, xã Th, huyện Đ, Lò Văn Đ có hành vi cất giữ trên tay phải của mình 0,72 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Số ma túy trên là do Đ mua của 1 người thanh niên dân tộc Thái khoảng 20 tuổi (không biết tên, địa chỉ) với số tiền 230.000 đồng.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy Đcủa pháp luật.
Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam:
Lò Văn Đ là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Trong vụ án này Lò Văn Đ không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân rất xấu bởi trước đó bị cáo đã có 02 tiền án nhưng đã được xóa án tích (Bản án số: 112/HSST ngày 27/9/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Bản án số: 29/2011/HSST ngày 22/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy). Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nghiện sử dụng chất ma túy từ nhiều năm nay, vì muốn có ma túy để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.
Về tên và năm sinh của bị cáo tại hai Bản án số: 112/2001/HSST ngày 27/9/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu và Bản án số: 29/2011/HSST ngày 22/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đều ghi là Lò Văn Đ1 - Sinh năm: 1964. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của bị cáo Lò Văn Đ trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Biên bản xác minh ngày 30/10/2020 tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên (BL: 73); Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, Giấy khai sinh của bị cáo (BL: 64, 65, 66, 69) thì tên và năm sinh chính xác của bị cáo là Lò Văn Đ, sinh năm 1963.
Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp với vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngoài hình phạt chính, theo quy Đtại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất Đtừ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.
[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,72 gam Methamphetamine (đã trích 0,2 gam gửi giám định không hoàn lại, còn lại 0,52 gam Methamphetamine) là vật chứng của vụ án, Hội đồng xét xử cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với chiếc xe đạp màu xanh là tài sản riêng của bị cáo Lò Văn Đ có trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên bị cáo đã dùng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 205 Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 43, khoản 4 Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình.
[6] Về các vấn đề khác: Lò Văn Đ khai mua ma túy của một người thanh niên dân tộc Thái khoảng 20 tuổi không biết tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.
[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo: Lò Văn Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (20/8/2020).
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 205 Bộ luật dân sự: khoản 1 Điều 43, khoản 4 Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình.
- Tịch thu tiêu hủy: 0,72 gam Methamphetamine (đã trích 0,2 gam gửi giám Đkhông hoàn lại, còn lại 0,52 gam Methamphetamine) là vật chứng của vụ án.
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe đạp màu xanh của bị cáo Lò Văn Đđã dùng làm phương tiện phạm tội.
Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2020 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Lò Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/12/2020).
Bản án 46/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 46/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về