Bản án 46/2020/HS-ST ngày 15/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 15/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 48/2020/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

NKH, sinh ngày 12 tháng 01 năm 1977 tại thành phố Hải Phòng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 35/19/46 phố A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 13/141 đường D, phường E, quận F, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông G và con bà H; đã ly hôn chị I, chung sống như vợ chồng với chị J; có 02 con, trong đó con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09-4-2020; tạm giam: ngày 15-4- 2020. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông NCK; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 08-4-2020, NKH đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết để mua ma túy sử dụng. Đến khu vực đường tàu K, quận C, thành phố Hải Phòng, NKH bảo người xe ôm đứng chờ, còn NKH đi bộ vào trong đường tàu mua của một người đàn ông không quen biết 200.000 đồng ma túy đá chứa trong 05 túi nilon gồm: hai túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng; một túi nilon bên trong chứa hai viên nén hình tròn, màu đỏ và các tinh thể màu trắng; một túi nilon bên trong chứa hai viên nén hình chữ nhật màu cam. Sau đó, NKH đặt số ma túy vừa mua cho vào một hộp kim loại màu vàng được chuẩn bị từ trước, giấu vào túi quần bên trái phía sau, rồi đi ra chỗ người xe ôm đứng chờ chở về nhà. Khi về đến chỗ ở số 13/141 đường D, phường E, quận F, thành phố Hải Phòng, NKH đặt hộp kim loại màu vàng chứa ma túy vừa mua vào một hộp nhựa bên trong có 02 điếu cuốn thảo mộc khô đã qua sử dụng.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, NKH lấy một ít ma túy từ một túi nilon chứa tinh thể màu trắng cho vào tờ giấy bạc rồi dùng bật lửa đốt tờ giấy bạc để sử dụng ma túy bằng bộ dụng cụ thủy tinh có gắn một ống thủy tinh, một ống hút nhựa. Khi sử dụng xong NKH cất số ma túy còn lại vào hộp kim loại màu vàng để trên nóc tủ đồ sơ sinh còn tờ giấy bạc bộ dụng cụ thủy tinh có gắn một ống thủy tinh, một ống nhựa và bật lửa NKH để trên giường ngủ phía đầu giường. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Công an phường Hùng Vương, Hồng Bàng tiến hành kiểm tra, thu giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang có sự chứng kiến của người chứng kiến, người làm chứng về việc NKH có hành vi tàng trữ trái phép các chất nghi là ma túy được thu giữ trên nóc tủ nhựa đựng đồ sơ sinh có 1 hộp nhựa bên trong có 02 điếu cuốn thảo mộc khô và 01 hộp kim loại màu vàng trong có: 01 túi nilong kích thước 01 cm x 01 cm, 01 túi nilon kích thước 02 cm x 02 cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng và hai viên hình tròn, màu đỏ;

01 túi nilon kích thước 04 cm x 06 cm bên trong chứa hai viên nén hình chữ nhật màu cam và thu giữ tại đầu giường ngủ một bộ dụng cụ thủy tinh có gắn ống thủy tinh và ống hút nhựa, 01 tờ giấy bạc và 01 bật lửa.

Theo Kết luận giám định số 173/KLGĐ ngày 13-4-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Tạp chất màu nâu đen bám dính trong ống thủy tinh của bộ dụng cụ thủy tinh và 01 tờ giấy bạc của mẫu số 01 gửi giám định là ma túy, là loại Methamphetamine. Không đủ điều kiện để xác định khối lượng tạp chất trên. Thảo mộc khô, vụ của mẫu số 02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,58 gam, là loại: Cần sa. Tinh thể màu trắng của mẫu số 03 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,43 gam là loại: Methamphetamine. Các viên nén mẫu số 04 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,20 gam là loại: Methamphetamine. Tinh thể màu trắng mẫu số 05A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,41 gam là loại: Methamphetamine. Các viên nén mẫu số 05B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,20 gam là loại: Methamphetamine. 02 viên nén của mẫu số 06 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,42 gam là loại: MDMA”.

Quá trình điều tra, NKH khai: Ngày 01-4-2020, NKH mua để sử dụng 02 điếu cần sa tại trong khu vực đường tàu K, quận C, thành phố Hải Phòng đêmục đích sử dụng) nhưng chưa sử dụng hết nên cất giấu trên nóc tủ nhựa đồ sơ sinh.

- Tại Cáo trạng số 40/CT-VKSHB ngày 24-6-2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố NKH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng; thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội danh và đề nghị xem xét thái độ ăn năn, hối hận của bị cáo, có thời gian tham gia lực lượng công an nhân dân, có bố được tặng nhiều huy chương, đề nghị xem xét điều kiện, hoàn cảnh có bố hiện đang điều trị mổ não, chị J là người chung sống với bị cáo mới bị chết do tai nạn giao thông, con nhỏ sinh năm 2019.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo NKH về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hu số ma túy còn lại sau giám định và 01 hộp kim loại màu vàng, 01 hộp nhựa, 01 bộ dụng thủy tinh có gắn ống thủy tinh và ống hút nhựa, 01 tờ giấy bạc và 01 bật lửa. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau đối với người bán ma túy và người điều khiển xe mô tô chở bị cáo, hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về thủ tục, tố tụng:

[1] Những tài liệu, chứng cứ do Công an phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, kiểm sát viên thu thập; bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện phù hợp quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về những tài liệu, chứng cứ đã thu thập, cung cấp. Do đó, những tài liệu, chứng cứ đã thu thập, cung cấp trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, phù hợp trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[3] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phòng vật chứng, sơ đồ hiện trường, phiếu xét nghiệm, biên bản mở niêm phong lấy mẫu giám định và niêm phong lại, biên bản mở niêm phòng và giao, nhận đối tượng giám định, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, đủ cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ ngày 08-4-2020, NKH có hành vi tàng trữ trái phép 1,24 gam Methamphetamine; 0,42 gam MDMA và 0,58 gam Cần sa tại nhà số 13/141 đường D, phường E, quận F, thành phố Hải Phòng với mục đích sử dụng mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Bởi vậy, đủ căn cứ kết luận hành vi của NKH cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết định hung hình phạt: Bị cáo khai nhận mua 02 điếu cuốn thảo mộc khô có chứa cần sa vào ngày 01-4-2020 do sử dụng chưa hết nhưng kết luận giám định xác định là 0,58 gam Cần sa < 1 gam Cần sa, nên lần này bị cáo có hành vi chưa đủ cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì xác định tổng khối lượng các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản của Điều 249 Bộ luật Hình sự là: (0,42 gam MDMA : 5 gam) x 100% + (1,24 gam Methamphetamine : 5 gam) x 100% + (0,58 gam Cần sa: 500 gam) x 100% = 33,316%. Tổng t lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy dưới 100%, thì tổng khối lượng của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bởi vậy, bị cáo NKH phạm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bởi vậy, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có thời gian công tác trong lực lượng công an nhân dân năm 1995, 1996, có bố được tặng Huy chương vì an ninh tổ quốc, Huy chương chiến sỹ vẻ vang và Huy hiệu 30 năm tuổi đảng, nên bị cáo được hưởng tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[8] Về áp dụng hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét tổng khối lượng các loại ma túy, đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù với mức khởi điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, bảo đảm trừng trị người phạm tội, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[9] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thể hiện bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về việc tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng của vụ án là vật Nhà nước cấm lưu hành hoặc là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội gồm: Toàn bộ lượng ma túy còn lại sau giám định trong 01 phong bì thư niêm phong số 173A/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; 01 bộ dụng cụ thủy tinh có gắn một ống thủy tinh, một ống hút bằng nhựa, và một tờ giấy bạc sau giám định có dấu niêm phong số 173B/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; 01 bật lửa màu đỏ, 01 hộp kim loại màu vàng, 01 hộp nhựa màu trắng.

[11] Đối với người bán ma túy và người điều khiển xe mô tô chở bị cáo, hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt: NKH 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 09 tháng 4 năm 2020.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hu : Toàn bộ lượng ma túy còn lại sau giám định trong 01 phong bì thư niêm phong số 173A/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; 01 bộ dụng cụ thủy tinh có gắn một ống thủy tinh, một ống hút bằng nhựa, và một tờ giấy bạc sau giám định có dấu niêm phong số 173B/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; 01 bật lửa màu đỏ, 01 hộp kim loại màu vàng, 01 hộp nhựa màu trắng. (Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 - 6 - 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án Dân sự Quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của U ban thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2020/HS-ST ngày 15/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;