Bản án 46/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2020/TLST-HS ngày 12/02/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST- HS ngày 14/02/2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cấn Đức T, sinh năm: 1999. NKTT: Xóm Văn Minh, thôn Cấn Thượng, xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Văn hoá: 09/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Con ông: Cấn Văn Xuân. Con bà: Nguyễn Thị Liêm. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. TATS: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam từ ngày 30/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: Sỹ Hoàng H, sinh năm: 1998. NKTT: Xóm Đoàn Kết, thôn Cấn Thượng, xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Văn hoá: 10/12. Nghề nghiệp: Chăn nuôi tại nhà. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không.

Con ông: Sỹ Danh Huấn. Con bà: Hà Thị Diệp. Gia đình có 03 anh em, bị can là con thứ 2. TATS: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 30/10/2019, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 1. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 12 giờ 00 phút, ngày 30/10/2019, tổ công tác Đội CSĐTTP về Ma túy - Công an quận Nam Từ Liêm làm nhiệm vụ trên đường 70, đoạn chạy qua Khu đô thị Viglacera thuộc tổ 7 phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phát hiện Sỹ Hoàng H điều khiển xe gắn máy nhãn hiệu Honda PCX biển số 29V7 - 265.06 phía sau chở Cấn Đức T chạy theo hướng từ ngã 4 Nhổn đi Đại lộ Thăng Long, có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu dừng xe kiểm tra, Cấn Đức T thả 01 túi nilon màu trắng từ trên tay phải xuống đường 70, đồng thời Sỹ Hoàng H tăng ga định bỏ chạy. Tổ công tác đã yêu cầu T nhặt túi nilon lên kiểm tra phát hiện bên trong có chứa tinh thể dạng đá màu trắng (nghi là ma túy). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H cùng tang vật chứng về trụ sở Công an phường Xuân Phương để lập hồ sơ xử lý theo quy định.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda PCX biển số 29V7 - 265.06; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng, gắn sim số thuê bao: 035.411.9998.

Kết luận giám định số 7020 ngày 08/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilonh là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,595 gam.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 9 giờ, ngày 30/10/2019 Cấn Đức T nhắn tin qua ứng dụng Facebook Messenger cho Sỹ Hoàng H rủ H cùng đi mua ma túy đá để sử dụng. H đồng ý và điều khiển xe máy nhãn hiệu PCX biển số 29V7 - 265.06 đi đến nhà T ở Cấn Thượng, Cấn Hữu, Quốc Oai, Hà Nội. T và H khai : Khi gặp nhau, T dùng điện thoại của H (0354119998) gọi điện cho một nam thanh niên tên là Quang (0392444139), nhà ở gần khu đô thị Viglacera để hỏi mua ma túy đá của Quang nhưng Quang không nghe máy. T bảo H chở T đi đến thẳng nhà Quang. Trên đường đi, T tiếp tục dùng điện thoại của H gọi điện cho Quang. Quang nghe máy thì T nói “anh để cho em 1 cái 3” (nghĩa là bán cho T 01 túi ma túy đá với giá 300.000đ). Quang nhất trí và bảo T “Đến đi”. T cùng H đi gần đến cổng nhà Quang gần đường 70, phường Xuân Phương, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì H dừng xe đợi, còn T đến cổng nhà Quang gọi điện thoại cho Quang và ngồi đợi khoảng 5 phút thì Quang từ trong nhà đi bộ ra đứng ở phía trong cổng sắt đang mở hé. T đứng bên ngoài cổng đưa 300.000đ qua khe cổng sắt. Quang nhận tiền và đưa vào tay cho T 01 túi nilon bên trong chứa ma túy đá, T cầm ở trên tay pH, đi ra gặp H và nói “được rồi, về thôi”, nhưng không đưa túi ma túy cho H xem. H hiểu là T đã mua được ma túy nên quay xe máy chở T để cùng nhau đi tìm địa điểm sử dụng. Khi H và T vừa đi đến cổng khu đô thị Viglacera thì gặp tổ công tác Đội CSĐTTP về Ma túy - Công an quận Nam Từ Liêm đang làm nhiệm vụ. T liền thả túi ma túy đá xuống đường để phi tang, nhưng lực lượng Công an đã kịp thời khống chế, bắt giữ và thu giữ tang vật.

Tại cơ quan điều tra, Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đối với đối tượng Quang là người bán ma túy cho T (như T và H khai). Cơ quan điều tra T hành xác minh và xác định có đối tượng Nguyễn Duy Quang - SN 1995; HKTT: số 407, tổ 6 phường Xuân Phương, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tuy nhiên, Nguyễn Duy Quang không thừa nhận bán ma túy cho Cấn Đức T. T hành cho Cấn Đức T nhận dạng Quang, T nhận dạng được Quang, tuy nhiên T hành đối chất Quang không thừa nhận là bán ma túy cho T. Mặt khác, bị can Sỹ Hoàng H khai cũng như nhận dạng không xác định được người bán ma túy cho T. Do đó không có đủ căn cứ để xác định Nguyễn Duy Quang là người bán ma túy cho Cấn Đức T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không đề cập xử lý trong vụ án này.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda PCX biển số 29V7 - 265.06. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản của anh Sỹ Hoàng Hà là anh trai của Sỹ Hoàng H. Anh Hà không biết việc H sử dụng xe của anh vào việc đi mua ma túy. Do đó, ngày 06/12/2019 Cơ quan CSĐT - Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 191, trao trả chiếc xe trên cho anh Sỹ Hoàng Hà. Anh Hà đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì về phần dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 04/02/2020, Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép 0,595 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để các bị cáo có cơ hội được ở cùng với gia đình và lao động ngoài xã hội.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của các bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo Cấn Đức T từ 15 đến 18 tháng tù; Áp dụng Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo Sỹ Hoàng H từ 12 đến 15 tháng tù. Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của Cấn Đức T, điều tra viên Trần Xuân Việt và Giám định viên Vũ Việt Cường:

- Tịch thu xung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng, gắn sim số thuê bao: 035.411.9998.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Hồi 12 giờ 00 phút, ngày 30/10/2019 tại đường 70, đoạn chạy qua Khu đô thị Viglacera thuộc tổ 7 phường Xuân Phương - Nam Từ Liêm - Hà Nội, Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,595 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. Bị cáo T, H có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,595gam Methamphetamine.

[2] Hành vi nêu trên của các bị cáo Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[3] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe các bị cáo và cộng đồng, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi gieo rắc cái chết cho cộng đồng, là hiểm họa gây nên căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Bị cáo T là người trực tiếp bỏ tiền ra mua ma túy, khởi xướng rủ rê lôi kéo H cùng bị cáo đi mua ma túy về sử dụng. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.

Xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo: Bị cáo Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Cá bị cáo Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

 Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò của từng bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo đã được phân tích ở trên. Do đó, khi lượng hình cần xem xét vai trò từng bị cáo thấy cần xử bị cáo T cao hơn bị cáo H, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng các bị cáo cũng như răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Không [6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của Cấn Đức T, điều tra viên Trần Xuân Việt và Giám định viên Vũ Việt Cường:

- Tịch thu xung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng, gắn sim số thuê bao: 035.411.9998.

[7] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ án: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo xử phạt bị cáo Cấn Đức T từ 15 đến 18 tháng tù; xử phạt bị cáo Sỹ Hoàng H từ 12 đến 15 tháng tù là phù hợp với tính chất mức độ hành vi và nhân thân của các bị cáo như đề nghị của Viện kiếm sát cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 38, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Cấn Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Xử phạt: Bị cáo Cấn Đức T 18 tháng (Mười tám tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2019

Tuyên bố: Bị cáo Sỹ Hoàng H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Xử phạt: Bị cáo Sỹ Hoàng H 12(mười hai tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2019.

Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 106, Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về dân sự : Không.

Về vật chứng : Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của Cấn Đức T, điều tra viên Trần Xuân Việt và Giám định viên Vũ Việt Cường:

- Tịch thu xung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng, gắn sim số thuê bao: 035.411.998. Toàn bộ vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam từ Liêm, theo biên bản giao nhận vật chứng số 97 ngày 11/02/2020.

Về án phí: Bị cáo Cấn Đức T và Sỹ Hoàng H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án:

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;