Bản án 46/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/TLST-HS, ngày 06 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đặng Minh T, tên gọi khác: T trọc; sinh năm 1984; tại tỉnh Quảng Ngãi; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: đường Y, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Đặng T, sinh năm 1960 và bà Bùi Thị B, sinh năm 1966, cùng trú tại. phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; vợ: Trần Thị Thanh L, sinh năm 1985, con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2008 và con nhỏ nhất sinh năm 2011, cả ba cùng trú tại: phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; tiền sự: Không.

Tiền án:

+ Ngày 18/11/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 05/9/2013 bị Tòa án nhân dân quận G, Tp. HCM xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”;

+ Ngày 26/12/2013 bị Tòa án nhân dân Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 06 năm tù (tổng hợp với bản án của TAND quận G, Tp. HCM). Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 20/7/2018, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 28/12/2019 đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Duy T, tên gọi khác: không, sinh năm 1987; tại tỉnh Lâm Đồng;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: đường M, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; trình độ văn hóa: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966 (đã chết) và bà Phạm Thị Kim D, sinh năm 1966, trú tại: Tổ 18, phường Lộc Phát, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; vợ: Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1988 (đã ly hôn); con: Chưa có; tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 03/03/2016 bị Tòa án nhân dân Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 09/10/2017, chưa đóng án phí, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: ngày 18/8/2014 bị công an phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 29/11/2019 đến nay. Có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Quốc Th, tên gọi khác: không, sinh năm 1982; tại tỉnh Đồng Nai;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn 8, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; trình độ văn hóa: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1931 (đã chết) và bà Trần Thị Y, sinh năm 1944 (đã chết); vợ: Đặng Thị Hồng D, sinh năm 1983 (đã ly hôn); con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2014, cả ba cùng trú tại: Xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 19/06/2003 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 22/10/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 09/10/2016, đã được xoá án tích.

Bị cáo bị bắt và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 07/3/2020 đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn K, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn K, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Chị Đặng Thị Thuý Ng, sinh năm 1984. Địa chỉ: đường N, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

4. Anh Phạm Ngọc Th, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn T, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

5. Ông Trần Văn H, sinh năm 1972. Địa chỉ: đường Q, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Trịnh Quốc V, sinh năm 1982. Địa chỉ: đường P, Phường 1, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Chị Trần Thị L, sinh năm 1985. Địa chỉ: đường L, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Chị Trần Thị Thanh L, sinh năm 1985. Địa chỉ: đường Y, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

4. Anh Trần Trung H, sinh năm 1983. Địa chỉ: đường P, Phường 1, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

5. Bà Phạm Thị Kim D, sinh năm 1966. Địa chỉ: Tổ 18, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 08/11/2019 đến 27/11/2019, Đặng Minh T cùng Nguyễn Duy T, Nguyễn Quốc Th đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất:

Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 08/11/2019, Đặng Minh T điều khiển xe mô tô biển số 49K1-213.70 của T chở theo Nguyễn Quốc Th đến nhà bà Lê Thị H, sinh năm 1977, địa chỉ thôn K, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng để trộm cắp tài sản. Th đứng ngoài cảnh giới, T lấy cây sắt hình chữ L mang theo phá khóa cửa vào trong nhà và lấy được 15 bịch sữa ong chúa có trọng lượng 15kg, 03 bịch ấu trùng ong có trọng lượng 15kg, 01 bịch cơm sầu riêng khoảng 15kg ở trong tủ lạnh nhà bà H. Sau đó, T lục tủ quần áo nhà bà H và lấy được 02 bóp nữ màu nâu, T bỏ 02 bóp nữ này vào trong túi áo rồi mang 02 bao tải đựng sữa ong, ấu trùng ong và cơm sầu riêng đưa cho Th cầm. T điều khiển xe chở Th cùng số tài sản trộm cắp đến nhờ ông Nguyễn Thế N, sinh năm 1966 ở thôn 16, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng bán được số tiền 5.000.000đ, T cho ông N 1.000.000đ. Số tiền bán được T và Th đã mua ma túy sử dụng hết. Trên đường đi đến nhà ông N, T kiểm tra trong 02 bóp nữ màu nâu lấy được ở nhà chị H không có tài sản bên trong nên đã vứt 02 chiếc bóp trên vào vườn cà phê của bà Trần Thị Tuyết N, sinh năm 1965, địa chỉ thôn 16, xã L, huyện B. Đến khoảng cuối tháng 12/2019 bà N nhặt được 01 chiếc bóp màu nâu bên trong có giấy tờ mang tên Lê Thị H nên đã liên hệ với bà H để trả lại.

Hiện Cơ quan Công an Tp. B đang tạm giữ 01 chiếc bóp nữ màu nâu; 01 ổ khóa nhãn hiệu Zyefl màu trắng do bà H giao nộp, số tiền 1.000.000đ do ông N giao nộp. Đối với chiếc bóp còn lại, Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐG ngày 06/3/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định: 15 kg sữa ong chúa trị giá 10.500.000đ; 15 kg ấu trùng ong trị giá 1.950.000 đồng, 01 bóp vải nữ hình chữ nhật không rõ nhãn hiệu trị giá 25.000đ. Tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 12.475.000đ. Đối với 15kg cơm sầu riêng, không có căn cứ để định giá nên không xác định được giá trị tài sản.

Vụ thứ hai:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 14/11/2019, Đặng Minh T điều khiển xe mô tô biển số 49K1-213.70 của T chở Nguyễn Duy T đến nhà của chị Đặng Thị Thúy Ng, sinh năm 1984, địa chỉ đường N, phường L, thành phố B để trộm cắp tài sản. T dùng cây sắt mang theo phá khóa cửa vào bên trong nhà và lấy trộm được 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS-K42 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-F5, màu đen để trên tủ trong phòng ngủ; T đi vào trong đường luồn nhà chị Ng lấy được 02 lồng chim bằng tre bên trong có 02 con chim khướu khoảng ba năm tuổi. Trong quá trình bắt chim T đã làm bay mất 01 con chim chích chòe lửa khoảng hai năm tuổi. Sau đó, T chở T ra trung tâm thành phố B bán các tài sản vừa trộm cắp cho anh Trịnh Quốc V, sinh năm 1982, ở địa chỉ đường P, Phường 1, thành phố B 01 chiếc máy tính xách tay được số tiền 1.800.000đ. Anh V đã bán máy tính này cho khách mua hàng không quen biết nên Cơ quan diều tra không thu hồi được. Đối với 02 lồng chim và 02 con chim Khướu, T và T mang bán cho một tiệm chim cảnh, ở địa đường L, Phường 1, thành phố B do anh Nguyễn Phương T, sinh năm 1977 làm chủ được số tiền 1.000.000đ. Do không xác định được số chim và lồng chim nêu trên đã bán cho ai nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO-F5, T không xác định được là bán cho cửa hàng nào, do đó Cơ quan điều tra không thu hồi được. Số tiền có được từ việc bán tài sản trộm cắp, T và T đã dùng mua ma túy để sử dụng.

Ngoài ra, chị Đặng Thị Thúy Ng trình báo còn bị mất thêm các tài sản gồm: 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Phạm Tiến D, 03 giấy đăng ký xe mô tô biển số 49V1- 7106, 49K1-37983, 49K1-37449; 04 giấy bảo hiểm y tế mang tên Phạm Tiến D và Đặng Thị Thúy Ng, Phạm Đăng Thiên Â, Phạm Quang N, tuy nhiên bị hại không cung cấp được tài liệu chứng minh, đồng thời T và T không thừa nhận nên không có căn cứ để xác định T và T có hành vi trộm cắp các tài sản trên của chị Ng.

Tại kết luận định giá tài sản số 136/KL-HĐĐG ngày 29/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B xác định: 01 laptop nhãn hiệu ASUS-K42, màu đen, Core i3, Ram 2gb có giá trị là: 2.400.000đ.

Tại kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 13/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F5 trị giá: 2.000.000đ; 01 lồng chim bằng tre dùng để nuôi chim chích chòe lửa có giá 350.000đ; 01 lồng nuôi chim khướu tròn, bằng tre khắc có giá trị 700.000đ; 01 con chim chích chòe lửa khoảng 2 năm tuổi có giá trị: 1.000.000đ; 01 con chim khướu khoảng 3 năm tuổi có giá trị: 2.500.000đ; 01con chim khướu khoảng 3 năm tuổi có giá trị 1.800.000đ. Tổng trị giá tài sản là 10.750.000đ.

Vụ thứ ba:

Vào khoảng 15 giờ ngày 15/11/2019, Đặng Minh T tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 49K1-213.70 chở Nguyễn Duy T đi đến nhà anh Phạm Ngọc Th, sinh năm 1990, thuộc thôn T, xã L, thành phố B để trộm cắp tài sản. T nói T đứng ngoài cảnh giới, T dùng cây sắt mang theo phá khóa cửa vào nhà và lấy được 1.000.000đ tiền mặt, một nhẫn nữ bằng vàng, một lắc tay bằng vàng. T đưa lắc tay và nhẫn vàng cho T xem, T nói với T là vàng giả nên T đã vứt toàn bộ số trang sức lấy được trên đường di chuyển. Cơ quan điều tra không xác định được nơi T đã vứt tài sản nên không thu hồi được, còn số tiền lấy được T và T đã dùng mua ma túy hết để sử dụng.

Bị hại Phạm Ngọc Th trình báo bị mất những tài sản gồm: 5.000.000đ tiền mặt, 03 nhẫn đeo tay nữ dạng tròn, bằng vàng 18K, mỗi cái có trọng lượng 0,5 chỉ; 01 lắc đeo tay nữ loại vàng 18K có trọng lượng 1,5 chỉ; 01 lắc đeo chân nữ loại vàng 18K có trọng lượng 01 chỉ; 01 sợi dây chuyền loại vàng 18K có trọng lượng 02 chỉ. Tuy nhiên, bị hại không cung cấp được tài liệu, chứng minh về nguồn gốc tài sản, các bị cáo không thừa nhận việc có trộm cắp số tài sản này nên không có căn cứ xác định.

Tại kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 13/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tp. B xác định: 03 nhẫn đeo tay nữ dạng tròn, loại vàng 18K (mỗi cái có trọng lượng 0,5 chỉ) trị giá: 2.617.350đ; 01 lắc đeo tay trẻ em, loại vàng 18K, trọng lượng 1,5 chỉ, trị giá: 2.617.350đ; 01 lắc đeo chân trẻ em loại vàng 18K, trọng lượng 01 chỉ trị giá 1.744.900đ; 01 sợi dây chuyền nữ loại vàng 18K, trọng lượng 2 chỉ, trị giá 3.489.800đ.

Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo thừa nhận đã trộm cắp của anh Phạm Ngọc Th gồm: 01 lắc đeo tay, 01 nhẫn đeo tay và tiền mặt là 4.489.800đ.

Vụ thứ tư:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút một ngày trong tháng 11/2019, Đặng Minh T điều khiển xe mô tô biển số 49K1-213.70 chở Nguyễn Duy T đi đến đường N, phường L, thành phố B do ông Huỳnh Văn T làm chủ để trộm cắp tài sản. T dùng mỏ Lết, cây sắt để phá khóa cửa vào trong. T và T trộm cắp được khoảng 10 chai rượu các loại rồi mang rượu đi đổi ma túy cho một nam thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch ở khu vực cầu Đ, phường L, thành phố B được 1.000.000đ. Cả hai đã sử dụng hết số ma túy nói trên.

Quá trình điều tra xác định: Chủ sở hữu căn nhà mà các bị cáo trộm cắp là ông Huỳnh Văn T. Quá trình điều tra, ông T không có mặt tại nơi cư trú và không liên lạc được. Do không xác định được bị hại, giá trị tài sản và không xác định được ai là người đã mua lại tài sản của các bị cáo nên Cơ quan điều tra Công an thành phố B tách ra tiếp tục xác minh để xử lý sau.

Vụ thứ năm:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27/11/2019, Nguyễn Duy T một mình điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu xe Honda Dream, màu nâu, biển số 49T6-9654 mượn của bà Phạm Thị Kim D, sinh năm 1966 là mẹ ruột của T, trú tại: Tổ 18, phường L, Tp. B làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà của ông Trần Văn H, sinh năm 1972, ở địa chỉ đường Q, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng thì T thấy trước sân nhà ông H có để nhiều cuộn dây cáp điện, không có người trông coi nên đã trộm cắp một cuộn dây cáp điện, loại dây cáp trần có 01 sợi dây thép và 06 sợi nhôm nặng 30kg bỏ lên yên xe rồi điều khiển xe mô tô chở cuộn dây đến bán cho vựa thu mua phế liệu T.

T do chị Trần Thị L, sinh năm 1985, nơi cư trú: đường L, xã L, thành phố B làm chủ. Tại đây, chị L trả cho T số tiền 405.000đ, do không có tiền lẻ nên chị L đưa trước cho T số tiền 400.000đ, còn nợ lại T 5.000đ. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày T tiếp tục điều khiển xe mô tô đến nhà ông H lấy trộm 01 cuộn dây cáp điện như trên mang đến bán cho chị L, chị L cân được 44 kg và trả cho T số tiền 594.000đ, do không đủ tiền nên chị Lan chỉ đưa trước cho T số tiền 400.000đ. Tổng số tiền T đã nhận từ chị L là 800.000đ, chị L còn nợ T số tiền là 199.000đ.

Đối với số tiền 800.000đ, T chưa kịp tiêu xài thì bị Công an thu giữ. Đối với số dây cáp điện đã mua của T, chị L đã bán 10kg dây cáp cho một người khách vãng lai nên không thu hồi được. Chị L đã tự nguyện giao nộp 64kg dây điện còn lại cho Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại 64kg dây cáp điện này cho chủ sở hữu là ông Trần Văn H. Ông H sau khi nhận lại được tài sản không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Tại kết luận định giá tài sản số 136/KL-HĐĐG ngày 29/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản Tp. B xác định: 74 kg dây cáp điện nhãn hiệu AC, loại dây cáp trần có một sợi thép và sáu sợi nhôm trị giá 2.797.200đ.

Bản Cáo trạng số 50/CT-VKSBL, ngày 04 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo Đặng Minh T, Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo T và Th theo khoản 1 Điều 173, bị cáo T theo điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Đặng Minh T, Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Minh T từ 05 năm đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc Th từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bà Phạm Thị Kim D 01 xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, BS: 49T6- 9654, số khung: VA.VDC 022 AV 000430, số máy: DAE – 100 – 1000430, màu sơn nâu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, BS: 49K1- 213.70, màu sơn đen-bạc, số khung RLHHCO 9006Y608480, số máy HC09E- 6608341; số tiền 1.800.000đ.

Giao cơ quan Công an thành phố B giải quyết theo thẩm quyền 01 laptop nhãn hiệu Acer – one 14, modenl Z1401-C283, màu đen. - Trả lại cho bị cáo T: 01 điện thoại Nokia 1280, số IMEI: 355862/01/755820/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – X1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia - moden - 1280, màu đen; 01 ví nam màu nâu không nhãn mác; 01 đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Genneva màu vàng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc bóp hình chữ nhật, màu nâu, không nhãn mác; 01 ổ khóa nhãn hiệu Zyefl, màu trắng;

Về bồi thường thiệt hại:

Buộc bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Quốc Th liên đới bồi thường cho bà Lê Thị H số tiền 12.475.000đ, phần của mỗi bị cáo là 6.237.500đ; bồi thường cho bà Nguyễn Thị T số tiền 1.800.000đ, phần của mỗi bị cáo là 900.000đ.

Buộc bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Duy T liên đới bồi thường cho chị Đặng Thị Thúy Ng số tiền 10.750.000đ, phần của mỗi bị cáo là 5.375.000đ.

Quá trình điều tra bị hại anh Trịnh Quốc V; anh Phạm Ngọc Th và anh Trần Văn H không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Các bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ các bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa các bị cáo Đặng Minh T, Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; Kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Đặng Minh T, đã bị kết án và bị xác định tình tiết tiết tăng nặng “Tái phạm”, chưa được xoá án tích. Các bị cáo Đặng Minh T; Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th là người sử dụng ma tuý. Trong khoảng thời gian từ ngày 08/11/2019 đến 27/11/2019, Đặng Minh T cùng Nguyễn Duy T, Nguyễn Quốc Th đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, tổng trị giá tài sản cả ba bị cáo chiếm đoạt là 30.693.800đ (ba mươi triệu, sáu trăm chín mươi ba ngàn, tám trăm đồng). Trong đó:

Bị cáo Đặng Minh T thực hiện cùng với bị cáo T và Th 04 vụ trộm cắp tài sản, có tổng trị giá là 27.714.800đ (hai mươi bảy triệu, bảy trăm mười bốn ngàn, tám trăm đồng).

Bị cáo Nguyễn Duy T thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản (với bị cáo T 02 vụ, một mình thực hiện 01 vụ), có tổng trị giá tài sản là 18.037.000đ.

Bị cáo Nguyễn Quốc Th thực hiện với 01 vụ trộm cắp tài sản cùng với bị cáo T, có trị giá tài sản là 12.475.000đ (mười hai triệu, bốn trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định đối với bị cáo Đặng Minh T tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; đối với bị cáo T và Th tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Cáo trạng số 50/CT-VKS, ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là người sử dụng ma tuý, đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, mục đích chiếm đoạt của các bị cáo nhằm thoả mãn nhu cầu cho bản thân (bị cáo T làm nguồn sống chính) và với thái độ xem thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đến cùng. Bị cáo T thực hiện tội phạm là nghiêm trọng, các bị cáo T và Th thực hiện tội phạm là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo T có ông nội Đặng Văn M là liệt sỹ. Vì vậy, cho ba bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51, bị cáo T áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo T: Phạm tội 04 lần, trong đó có 03 lần có trị giá tài sản trên 2.000.000đ. Vì vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Bị cáo T: phạm tội 03 lần đều có giá trị tài sản trên 2.000.000đ và bị Tòa án nhân dân Tp. B xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 09/10/2017, chưa đóng án phí, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới do cố ý. Vì vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm” được qui định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Th: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Vụ án có đồng phạm nên cần xem xét tính chất và mức độ của từng bị cáo như sau:

Đối với bị cáo Đặng Minh T là người không có nghề nghiệp; phạm tội 05 lần, lấy việc phạm tội để nuôi sống cho bản thân và sử dụng ma tuý, là người rủ rê T và Th, là người thực hiện tội phạm tích cực nên mức hình phạt cao nhất.

Đối với bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội 03 lần và là người thực hiện tội phạm tích cực nên mức hình phạt thấp hơn bị cáo T nhưng phải cao hơn bị cáo Th.

Đối với bị cáo Th phạm tội 01 lần và là người thực hiện tội phạm tích cực nên mức hình phạt thấp hơn hai bị cáo T và T.

[9] Về phạt bổ sung: Các bị cáo là người sử dụng ma tuý, không có nghề nghiệp nên miễn phạt bổ sung.

[10] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 49T6-9654, số khung: VA.VDC 022 AV 000430, số máy: DAE – 100 – 1000430, màu sơn nâu. Đây là tài sản hợp pháp của bà D, bà D không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên trả lại cho bà Phạm Thị Kim D chiếc xe này.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 49K1-213.70, màu sơn đen-bạc nâu, số khung RLHHCO 9006Y08480, số máy: HC09E-6608341, đây là tài sản của T dùng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 laptop nhãn hiệu Acer – one 14, modenl ZL401-C283, màu đen. Quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên giao cơ quan Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền.

- Đối với 01 điện thoại Nokia 1280, số IMEI: 355862/01/755820/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – X1, số IMEI: 359732/04/234233/2, IMEI: 359732/04/234234/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – moden – 1280, số IMEI: 352005/04/901619/2; 01 ví nam màu nâu không nhãn mác; 01 đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Genneva màu vàng. Đây là tài sản riêng của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 chiếc bóp hình chữ nhật, màu nâu, không nhãn mác; 01 ổ khóa nhãn hiệu Zyefl, màu trắng. Quá trình điều tra bà H không yêu cầu và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ:

- Trả cho bà Lê Thị H số tiền 1.000.000đ do ông Nguyễn Thế N giao nộp. Đây là số tiền các bị cáo T và Th bán tài sản của bà H mà có.

- Trả lại cho bà Trần Thị L số tiền 800.000đ. Đây là tiền của bà Trần Thị L đã mua 74 kg dây cáp điện nhãn hiệu AC của Nguyễn Duy T.

[11] Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 589 Bộ luật dân sự, giải quyết như sau:

Quá trình điều tra bà Lê Thị H yêu cầu bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Quốc Th liên đới bồi thường cho số tiền 12.475.000đ, trừ 1.000.000đ đã xử lý ở phần vật chứng. Tại phiên toà các bị cáo T và Th đồng ý liên đới bồi thường số tiền 11.475.000đ, phần bồi thường của mỗi bị cáo là 5.737.500đ. Đồng ý liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị T số tiền 1.800.000đ, phần bồi thường của mỗi bị cáo là 900.000đ.

Chị Đặng Thị Thúy Ng yêu cầu các bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Duy T liên đới bồi thường số tiền 10.750.000đ, các bị cáo đồng ý bồi thường số tiền này, phần bồi thường của mỗi bị cáo là 5.375.000đ.

Chị Trần Thị L yêu cầu bị cáo Nguyễn Duy T bồi thường số tiền 800.000đ. Quá trình điều tra đã thu hồi được và đã xử lý ở phần vật chứng.

Quá trình điều tra, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Ngọc Th, ông Trần Văn H, anh Trịnh Quốc V, anh Trần T Hiếu không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.

[12] Các vấn đề khác:

Đối với ông Nguyễn Thế N, anh Trịnh Quốc V, anh Nguyễn Phương T, chị Trần Thị L, anh Trần Trung H có hành vi mua lại tài sản do T và T trộm cắp mà có. Tuy nhiên, những người này không biết được nguồn gốc của số tài sản trên là do T và H phạm tội mà có nên xem xét trách nhiệm hình sự.

[13] Xét đề nghị và luận tội của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là căn cứ chấp nhận một phần. Phần không được chấp nhận là số tiền 1.800.000đ sung ngân sách Nhà nước, vì đây là tiền mà các bị cáo bán tài sản của bị hại bà Lê Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị L do Cơ quan điều tra đã thu hồi được nên phải trả lại cho bà H 1.000.000đ, trả cho chị L 800.000đ là có căn cứ pháp luật.

[14] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[15] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Minh T, Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173, Điều 17; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Minh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 17; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/11/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 17; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/3/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bà Phạm Thị Kim D 01 xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 49T6- 9654, số khung: VA.VDC 022 AV 000430, số máy: DAE – 100 – 1000430, màu sơn nâu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 49K1-213.70, màu sơn đen-bạc, số khung RLHHCO 9006Y608480, số máy: HC09E- 6608341.

- Giao cơ quan Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền 01 laptop nhãn hiệu Acer – one 14, modenl Z1401-C283, màu đen.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 điện thoại Nokia 1280, số IMEI: 355862/01/755820/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – X1, số IMEI: 359732/04/234233/2, IMEI: 359732/04/234234/0; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – moden – 1280, số IMEI: 352005/04/901619/2; 01 ví nam màu nâu không nhãn mác; 01 đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Genneva màu vàng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc bóp hình chữ nhật, màu nâu, không nhãn mác; 01 ổ khóa nhãn hiệu Zyefl, màu trắng;

- Trả lại cho bà Lê Thị H số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng).

- Trả lại cho chị Trần Thị L số tiền 800.000đ (tám trăm ngàn đồng).

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/5/2020 giữa Cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Tiền theo Uỷ nhiệm chi số 38 ngày 06/5/2020 giữa Cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về bồi thường thiệt hại:

Buộc bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Quốc Th liên đới bồi thường cho bà Lê Thị H số tiền 11.475.000đ (mười một triệu, bốn trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) phần bồi thường của mỗi bị cáo là 5.737.500đ (năm triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm đồng).

Buộc bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Quốc Th liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị T số tiền 1.800.000đ (một triệu tám trăm ngàn đồng), phần bồi thường của mỗi bị cáo là 900.000đ (chín trăm ngàn đồng).

Buộc bị cáo Đặng Minh T và Nguyễn Duy T liên đới bồi thường cho chị Đặng Thị Thúy Ng số tiền 10.750.000đ (mười triệu đồng), phần bồi thường của mỗi bị cáo là 5.375.000đ (năm triệu, ba trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được qui định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

5. Về án phí: Buộc các bị cáo Đặng Minh T, Nguyễn Duy T và Nguyễn Quốc Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Buộc các bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, gồm: bị cáo Đặng Minh T 600.600đ (sáu trăm ngàn, sáu trăm đồng), bị cáo Nguyễn Duy T 300.000đ (ba trăm ngàn), bị cáo Nguyễn Quốc Th 331.800đ (ba trăm, ba mươi mốt ngàn, tám trăm đồng).

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;