Bản án 46/2019/HSST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 46/2019/HSST NGÀY 09/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn K; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15/6/1974 tại tỉnh B; Nơi cư trú: Tổ 05, phường H, thành phố Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12 phổ thông; Con ông: Phạm T(Còn sống); Con bà: Nguyễn Thị L (Đã chết); Vợ: Nguyễn Thị H; Con: Bị cáo có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 06/4/2019, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H - sinh năm: 1983. (Có mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố 05, phường H, thành phố Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 06/4/2019, tổ công tác đội cảnh sát điều tra Công an thành phố Đlàm nhiệm vụ tại khu vực tổ 22, phường M, thành phố Đphát hiện Phạm Văn K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 011.50 dừng xe ở vỉa hè rồi đi vào quầy thuốc số 37 có biểu hiện nghi vấn về ma túy. Khi tổ công tác kiểm tra thì K thả từ lòng bàn tay trái xuống nền quầy thuốc cách chân trái của K 10cm 01 gói giấy trắng. K khai đó là ma túy loại Heroine, bị cáo mua mục đích để sử dụng.

K khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 06/4/2019, bị cáo một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, nhãn hiệu HUNDACPI từ nhà ở tổ dân phố 05, phường H, thành phố Đ vào khu vực xã L, huyện B, tỉnh B mục đích để mua Heroine về sử dụng, khi vào đến khu vực đội 08, xã L, bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 30 tuổi, cao 1,6m đang đứng bên đường nhìn giống người nghiện ma túy, bị cáo dừng xe, người thanh niên đó hỏi bị cáo có mua Heroine không, bị cáo trả lời có, sau đó bị cáo đưa cho người thanh niên đó 100.000đ, người thanh niên đó cầm tiền và đi bộ về phía bản, khoảng 15 phút sau người thanh niên đó đi ra và đưa cho bị cáo 01 gói nhỏ có đặc điểm được gói ngoài bằng mảnh giấy màu trắng, có dòng kẻ và chữ viết bằng mực màu xanh, bên trong có 01 cục nhỏ Heroine, bị cáo dùng tay phải nhận gói Heroine người thanh niên đó đưa cho và chuyển sang cầm trong lòng bàn tay trái rồi một mình điều khiển xe máy về nhà. Đến khoảng 10 giờ 10 phút, bị cáo đến quầy thuốc số 37, thuộc tổ dân phố 22, phường M, thành phố Đ, bị cáo dừng xe máy ở vỉa hè, đi vào hiệu thuốc, khi vừa mở cửa đi vào hiệu thuốc, thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy đang làm nhiệm vụ tại đó phát hiện, bắt giữ. khi bị bắt bị cáo đã thả 01 gói heroine trong lòng bàn tay trái xuống nền quầy thuốc cách chỗ bị cáo đứng 10cm.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 06/4/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 410/GĐ-PC09 ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,13 gam;

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKS-TPĐBP ngày 16/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Văn K từ 12 đến 15 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,1 gam heroine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy trắng có dòng kẻ, chữ viết màu xanh. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, nhãn hiệu HUNDACPI, kèm 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị H, 01 chìa khóa xe, trả lại cho chị Nguyễn Thị H 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, nhãn hiệu HUNDACPI. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Văn K không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 06/4/2019, tại tổ dân phố 22, phường M, thành phố Đ, tỉnh B, Phạm Văn K đã có hành vi cất dấu trái phép 0,13gam heroine trong lòng bàn tay trái, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 40 phút ngày 06/4/2019, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 06/4/2019, kết luận giám định số 410/GĐ-PC09 ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,13gam.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo K, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Phạm Văn K phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố mẹ bị cáo là ông Phạm Tvà bà Nguyễn Thị L đều được nhà nước tặng thưởng huy cH kháng chiến hạng nhất, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo Phạm Văn K là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông tại đội 08, xã L, huyện B, nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với 01 chiếc ví giả da màu đen, số tiền 650.000đ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu trắng kèm sim, 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Văn K, trong quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả tài sản trên cho bị cáo K, bị cáo đã ủy quyền cho chị Nguyễn Thị H, địa chỉ: Tổ 05, phường H, thành phố Đ, tỉnh B nhận hộ. Xét việc trao trả này của Cơ quan điều tra là có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6].Vật chứng: 0,1 gam Heroine (vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh giấy màu trắng, có dòng kẻ, chữ viết mực màu xanh không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, nhãn hiệu HUNDACPI, màu sơn đỏ đen, là pH tiện phạm tội cùng đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị H kèm chìa khóa xe, trong quá trình giải quyết, xác định là tài sản chung của bị cáo và vợ là chị Nguyễn Thị H, chị H không biết việc bị cáo dùng chiếc xe máy trên làm phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe máy và trả lại cho chị H 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, nhãn hiệu HUNDACPI, màu sơn đỏ đen.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (06/4/2019).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy màu trắng, có dòng kẻ, chữ viết mực màu xanh, tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1- 011.50, 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị H, 01 chìa khóa xe. Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1-011.50, nhãn hiệu HUNDACPI, màu sơn đỏ đen. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/7/2019 giữa Công an thành phố Đvà Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/8/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2019/HSST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;