Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 14 và ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 217/2019/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 8 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28 tháng 10 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 14 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị H - sinh năm: 1990 (có mặt).

Địa chỉ: 353, ấp T, xã M, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh K - sinh năm: 1991 (vắng mặt không lý do).

Địa chỉ: 56/2, ấp U, xã Đ, TP S, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn là chị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị H và anh K quen biết và tìm hiểu nhau vào năm 2011, sau thời gian tìm hiểu (khoảng 01 năm) đến năm 2012, được sự đồng ý, ưng thuận của 02 bên gia đình, chị H và anh K tổ chức đám cưới vào ngày 27/6/2012 và đăng ký kết hôn vào ngày 02/01/2013 tại UBND xã Tân Mỹ, huyện V, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng về sau khoảng tháng 4, tháng 5/2013 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh K chỉ biết lo ăn chơi, tụ tập bạn bè nhậu nhẹt thường xuyên, không thương yêu, chăm sóc vợ con, chị H đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh K không nghe và không chịu sửa đổi. Khoảng 06 tháng nay vợ chồng không còn sống chung, anh K cũng không tới lui hàn gắn tình cảm, không phụ tiếp chị H tiền bạc để nuôi con. Nay, chị H nhận thấy cuộc sống chung không có hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cự cãi, gây gổ nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể hàn gắn như xưa; chị H yêu cầu được ly hôn anh K.

Tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm với anh K, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân với anh K không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H không thể tiếp tục chung sống với anh K; trường hợp Tòa án không cho ly hôn, chị H cũng không về sống chung với anh K. Chị H yêu cầu được ly hôn anh K.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên A - sinh ngày: 05/3/2013, hiện đang sống với chị H. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; chị H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án bị đơn là anh K vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng anh K không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập cho anh K nhiều lần nhưng anh K vẫn không đến Tòa án để tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và không tham gia phiên tòa theo quy định.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là anh K không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát thống nhất với trình tự thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn là anh K.

- Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao cháu A - sinh ngày: 05/3/2013, hiện đang sống với chị H cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng con chung sau ly hôn.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị H xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn anh K là loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Quá trình tham gia tố tụng: Bị đơn là anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố dân sự xét xử vắng mặt anh K.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về hôn nhân: Chị H và anh K chung sống vợ chồng từ năm 2012, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 02/01/2013 tại UBND xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh K được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, giữa chị H và anh K đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh K chỉ biết lo ăn chơi, tụ tập bạn bè nhậu nhẹt thường xuyên, không thương yêu, chăm sóc vợ con, không lo đi làm kiếm tiền phụ tiếp kinh tế gia đình; không tiếp giúp chị H chăm sóc con chung, không có trách nhiệm làm chồng, làm cha… chị H đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh K không nghe và không chịu sửa đổi; cuộc sống vợ chồng thường xuyên cự cãi, gây gổ nhau, không có sự thương yêu, quan tâm lẫn nhau. Từ khi chị H và anh K sống ly thân (khoảng tháng 5/2019) đến nay, anh K cũng không tới lui, không liên lạc điện thoại, không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng và không quan tâm đến chị H. Tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm với anh K, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân với anh K không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H không thể tiếp tục chung sống với anh K; trường hợp Tòa án không cho ly hôn, chị H cũng không về sống chung với anh K. Chị H yêu cầu được ly hôn anh K.

Về phía anh K đã biết được việc chị H khởi kiện yêu cầu xin ly hôn anh K, nhưng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, không đến tham dự các buổi hòa giải cũng như phiên tòa hôm nay. Như vậy, anh K đã từ chối các quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Bản thân anh K cũng không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị H nên đã không đến Tòa án để tham gia hòa giải, không cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”.

Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có sự thương yêu, quan tâm lẫn nhau. Giữa chị H và anh K cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án từ khi thụ lý vụ án đến nay, anh K đều cố tình không đến Tòa án để tham gia hòa giải, xét xử cũng không có văn bản ý kiến, trình bày gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị H; từ đó cho thấy bản thân anh K cũng không có thành ý muốn hòa giải, đoàn tụ tiếp tục chung sống với chị H. Nếu chị H và anh K đoàn tụ tiếp tục chung sống vợ chồng thì cũng không có hạnh phúc. Tại phiên tòa hôm nay, chị H xác định là không còn tình cảm, không muốn hàn gắn, tiếp tục chung sống với anh K, cuộc sống hôn nhân với anh K không có hạnh phúc, trường hợp Tòa án không cho ly hôn thì chị H cương quyết không về chung sống với anh K; chị H yêu cầu xin được ly hôn anh K. Do đó, xét thấy việc chị H yêu cầu được ly hôn anh K là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về nuôi con chung: Khi ly hôn, chị H có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên A - sinh ngày: 05/3/2013, hiện đang sống với chị H. Xét thấy, hiện cháu A đang có cuộc sống ổn định với chị H, được chị H và những người thân trong gia đình của chị H quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và dành nhiều tình thương cho cháu, hiện cháu có sự phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Mặc khác, hàng ngày anh K cũng ít khi quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho cháu A. Vì vậy, để đảm bảo cho cháu A có cuộc sống ổn định và phát triển tốt về tâm sinh lý; Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu A cho chị H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật và bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của cháu A trong sinh hoạt, học tập. Anh K được quyền tới lui thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Tại khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, ...

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

[4] Đối với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H. Cho chị H ly hôn anh K.

2. Về nuôi con chung: Chị H được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên A - sinh ngày: 05/3/2013, hiện đang sống với chị H. Chị H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn.

- Anh K có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị H nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn). Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, chị H đã nộp ngày 07/8/2019 theo biên lai thu số 0009838 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc được khấu trừ toàn bộ án phí phải nộp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:46/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;