Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 22/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2018/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 588/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị G; nơi cư trú: Số 01 đường N, phường M, quậnN, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Đức T; nơi ĐKHKTT: Số 01 đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; hiện đang thi hành án tại đội 1 phân trại 2 Trại giam Đồng Vải, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2018, bản tự khai nguyên đơn chị Lê ThịG trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2003, chị và anh Lê Đức T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam, cóđăng ký kết hôn ngày 24 tháng 11 năm 2003 tại Uỷ ban nhân dân phường Quang Trung, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống hòa thuận, đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do anh T vi phạm pháp luật bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 14 năm tù về tội “Giết người”, hiện đang thi hành án tại đội 1 phân trại 2 Trại giam Đồng Vải, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó cuộc sống của vợ chồng không có hạnh phúc và ngày càng trầm trọng, từ 10 năm nay chị đã một mình nuôi các con nhưng đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Đức T.

Về việc nuôi con: Chị xác nhận giữa chị và anh Lê Đức T có hai con chung là Lê Thành Đạt, sinh ngày 23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007. Hiện anh T đang thi hành án, không có điều kiện cũng như thời gian chăm các con. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị G xác nhận chị và anh Lê Đức T không có tài sản chung, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Bị đơn anh Lê Đức T trình bày tại bản tự khai như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Đức T xác nhận về thời gian kết hôn cũng như quá trình chung sống đúng như chị G trình bày. Theo anh T thì vợ chồng chung sống hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2009 anh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 14 năm tù về tội “Giết người”, do đó anh không thể thường xuyên quan tâm chăm sóc động viên vợ, con, tình cảm ngày càng xa cách. Từ đó đến nay chị G cũng không đến thăm anh, hiện anh đang thi hành án tại đội 1 phân trại 2 Trại giam Đồng Vải, tỉnh Quảng Ninh. Nay anh xác định tình cảm của anh với chị G không còn, chị G có đơn xin ly hôn anh đồng ý ly hôn và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Về việc nuôi con: Anh Lê Đức T xác nhận giữa anh và chị Lê Thị G có hai con chung là Lê Thành Đạt, sinh ngày 23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007. Anh đồng ý giao cả hai con cho chị G nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôicon anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về việc chia tài sản: Anh Lê Đức T xác nhận anh và chị Lê Thị G không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tòa án đã thu thập chứng cứ đối với gia đình chị G và anh T: Về quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị G và anh Lê Đức T, thể hiện: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T thời gian đầu chung sống bình thường không có mâu thuẫn, đến năm 2009 vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do anh T phạm tội Giết người bị

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 14 năm tù và hiện đang thi hành án tại trại giam Đồng Vải, tỉnh Quảng Ninh. Gia đình đều xác nhận chị Lê Thị G và anh Lê Đức T có hai con chung là Lê Thành Đạt, sinh ngày 23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007. Khi ly hôn Tòa án nên giao con cho chị G nuôi; về tài sản chung: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T không có tài sản chung.

Nguyên đơn chị Lê Thị G tại phiên tòa vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt tại hồ sơ đã có lời khai phù hợp với đơn khởi kiện, Tòa án công bố bản tự khai chị G vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Đức T.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn chị Lê Thị G và bị đơn anh Lê Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử xử vắng mặt chị G, anh T theo quy định khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng có quan điểm: Mâu thuẫn của chị Lê Thị G và anh Lê Đức T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị G, chị Lê Thị G được ly hôn anh Lê Đức T; về việc nuôi con: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T có hai con chung là Lê Thành Đạt, sinh ngày 23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007. Do anh T đang thi hành án không có điều kiện chăm sóc con nên giao con cho chị G trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Lê Thị G và anh Lê Đức T không yêu cầu Tòa án giải quyết; về việc chia tài sản: chị Lê Thị G và anh Lê Đức T không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết; về án phí: Chị Lê Thị G phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tạiphiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

 [1] Đây là quan hệ pháp luật về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn anh Lê Đức T cư trú tại địa bàn quận Ngô Quyền nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án:

 [2] Ngày 27 tháng 3 năm 2018, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 26 tháng 7 năm 2018, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

 [3] Nguyên đơn chị Lê Thị G và bị đơn anh Lê Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử xử vắng mặt chị G, anh T theo quy định khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

 [4] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị G và anh Lê Đức T được xác lập từ ngày 24 tháng 11 năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Quang Trung, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [5] Quá trình chung sống chị Lê Thị G và anh Lê Đức T chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do anh T phạm tội Giết người bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 14 năm tù, hiện đang thi hành án tại đội 1 phân trại 2 Trại giam Đồng Vải, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó tình cảm của chị G và anh T ngày càng xa cách. Nay chị G và anh T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn. Xét mâu thuẫn giữa chị Lê Thị G và anh Lê Đức T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị G.

 [6] Về việc nuôi con: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T có hai con chung là LêThành Đạt, sinh ngày 23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007. Hộiđồng xét xử xét: Anh Lê Đức T hiện đang thi hành án, không có điều kiện chăm sóc con. Mặt khác, để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm lý, sự phát triển về mọi mặt cho các con, nên giao cho chị Lê Thị G nuôi cả hai con cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị G và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [7] Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T đều xác nhận khôngcó tài sản chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

 [8] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Lê Thị G phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

 [9] Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị G.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị G được ly hôn anh Lê Đức T.

2. Về việc nuôi con: Giao hai con chung là Lê Thành Đạt, sinh ngày23/11/2004 và Lê Diệu Hiền, sinh ngày 25/02/2007 cho chị Lê Thị G trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị G và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T không có tài sảnchung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị G phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014509 ngày 27 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phốHải Phòng. Chị Lê Thị G đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Lê Thị G và anh Lê Đức T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 22/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;