Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2018/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 197X; đăng ký thường trú tại: Đường C, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Anh D, sinh năm 197Y; đăng ký thường trú tại: Đường C, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai của chị Nguyễn Thị Hồng H có trong hồ sơ thể hiện:

Chị Nguyễn Thị Hồng H và anh Lê Anh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu vào năm 2007, nhưng đến năm 2010 vợ chồng mời làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Dư Hàng, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, cách sống, hai người không tìm được tiếng nói chung. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên là Lê Tuấn N, sinh ngày11/9/200Z, Lê Thanh L, sinh ngày 28/7/201P và Lê Chấn P, sinh ngày 02/01/201T. Nếu ly hôn, thì chị H nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Thanh Lâm và Lê Chấn Phong. Chị đề nghị giao con chung tên là Lê Tuấn Nghĩa cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giảiquyết.

Anh Lê Anh D có bản tự khai và quan điểm trình bày tại biên bản hòa giảithể hiện:

Anh D nhất trí với trình bày của chị H về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, con chung, tài sản chung. Anh cho rằng vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn bất đồng nhưng đã giải quyết xong. Còn một số bất đồng anh nghĩ cần có thời gian để giải quyết, nay chị H xin ly hôn thì anh không đồng ý, nếu chị H kiên quyết thì tùy chị H.

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung như chị H trình bày. Nếu ly hôn, anh D nhận trực tiếp nuôi con chung là Lê Tuấn N đến khi con thành niên và giao hai con chung Lê Thanh L và Lê Chấn P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Nếu ly hôn, vợ chồng sẽ tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại biên bản xác minh tại địa phương nơi chị H và anh D cư trú có nội dung thể hiện: Vợ chồng chị H và anh D có xảy ra mâu thuẫn đánh cãi nhau, đã có lần công an, tổ dân phố đến giải quyết và hòa giải nhưng không có kết quả.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về tố tụng; bị đơn chấp hành chưa đúng quy định của pháp luật mặc dù Tòa án đã triệu tập đến phiên tòa lần thư hai nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự

Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Hồng H và anh Lê Anh D lấy nhau có đăng ký kết hôn vì vậy hôn nhân là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị H được ly hôn anh D theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Vợ chồng có có 03 con chung tên là Lê Tuấn N, sinh ngày11/9/200Z, Lê Thanh L, sinh ngày 28/7/201P và Lê Chấn P, sinh ngày 02/01/201T. Khi ly hôn, đề nghị giao con chung tên là Lê Thanh L và Lê Chấn P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung tên là Lê Tuấn N cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng nuôi đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:

 [1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và xác nhận tạm trú thể hiện: Anh Lê Anh D, sinh năm 197Y; đăng ký thường trú tại: Đường C, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng. Do vậy căn cứ vào các điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hồng H và bị đơn là anh Lê Anh D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

 [2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là anh Lê Anh D vắng mặt lần thứ 02 không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Bởi vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Lê Anh D.

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng H và anh Lê Anh D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2010 nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng đã được hai bên gia đình động viên, khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Anh D mặc dù không muốn ly hôn nhưng sau khi hòa giải với chị tại Tòa án không thành anh D cũng không đến Tòa án làm việc, chứng tỏ sự bỏ mặc, không quan tâm đến hạnh phúc gia đình. Đến nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, chị H yêu cầu được ly hôn anh D là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Về con chung: Chị H và anh D có có 03 con chung tên là Lê Tuấn N, sinh ngày 11/9/200Z, Lê Thanh L, sinh ngày 28/7/20P và Lê Chấn P, sinh ngày02/01/201T. Nếu ly hôn thì chị H xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Thanh L và Lê Chấn P và đồng ý giao con chung là Lê Tuấn N cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo đơn trình bày của cháu N là nếu bố mẹ ly hôn thì cháu xin được ở với bố và quan điểm của chị H, anh D về việc nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung khi ly hôn là tự nguyện không trái đạo đức xã hội cũng như theo nguyện vọng của cháu L cũng như cháu N nên cần được chấp nhận theo các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình

 [5] Về tài sản chung: Chị H và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28; 147; 227; 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;Căn cứ các điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chị Nguyễn Thị Hồng H được ly hôn anh Lê Anh D.

Về con chung: Giao con chung tên là Lê Thanh L, sinh ngày 28/7/201Z và Lê Chấn P, sinh ngày 02/01/201P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung tên là Lê Tuấn N, sinh ngày 11/9/200T cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con thành niên hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do hai bên tự thỏa thuận.Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở. 

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004926 ngày 12 tháng 02 năm 2018 của Chi cục Thihành án dân sự Quận Lê Chân.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;