TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 46/2017/HSST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 9 năm 2017 tại phòng xét xử, Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 21/2017/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2017 đối với bị cáo:
Hoàng Thị L, sinh năm: 1980 tại Thanh Hoá; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Bon S, xã Đ, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: không có nghề nghiệp ổn định; con ông Hoàng Văn L; con bà Nguyễn Thị S; có chồng là Phan Văn H và 04 con (lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2017).
Nhân thân: Ngày 19/7/2016 trộm cắp tài sản trên địa bàn thị xã G, tỉnh Đăk Nông, ngày 06/3/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã G tuyên phạt 09 tháng tù tại bản án số: 12/2017/HSST; ngày 30/12/2016 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, ngày 22/9/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đăk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp 09 tháng tù của bản án số 12/2017/HSST ngày 06/3/2017 của Tòa án nhân dân thị xã G về tội: “Trộm cắp tài sản”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Chị Cao Thị V; địa chỉ: Thôn Q, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Hoàng Thị L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 05/02/2017, Hoàng Thị L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius mang BKS: 86B1-319.56, từ thị xã G đến địa bàn xã Đ, huyện Đ tìm quán tạp hóa sở hở để lấy tài sản. Trước khi đi, L chuẩn bị 01 áo khoác rộng mặc để dễ cất giấu tài sản. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, L đến cửa hàng tạp hóa của chị Cao Thị V thuộc thôn Q, xã Đ, huyện Đ, L dựng xe phía trước cửa hàng và đi vào hỏi mua cạc nạp tiền điện thoại Viettel mệnh giá 20.000đ. Lợi dụng lúc chị V bán hàng cho người khách khác, L lén lút lấy 02 cây thuốc lá điếu hiệu Caraven-A (do Việt Nam sản xuất) nhét vào áo khoác rồi đi ra ngoài bỏ vào cốp xe cất giấu. Sau đó, L tiếp tục quay lại cửa lấy thêm 01 cây thuốc lá điếu hiệu White Horse và 01 cây thuốc hiệu Saigon (đều là thuốc lá do Việt Nam sản xuất) bỏ vào áo khoác. Trong lúc lấy thuốc lá, L phát hiện chiếc túi xách màu đen hiệu CLASSIC đựng tiền và thẻ cào nạp tiền điện thoại di động của V để trên ghế trong cửa hàng nên L giả vờ hỏi mua nhiều thứ như dầu ăn, rượu, nước mắm…để chị V mất tập trung. Khi chị V đang lấy hàng bán cho L thì L nhanh chóng lấy chiếc túi xách bỏ vào chiếc áo khoác đang mặc rồi đi ra ngoài để điều khiển xe bỏ chạy. Chị V quay ra phát hiện thấy mất tài sản và L đang lên xe bỏ chạy thì truy hô mọi người đuổi theo. L điều khiển xe chạy theo hướng về xã N được khoảng 1km thì bị anh Phan Thanh T bắt giữ cùng vật chứng.
Vật chứng thu giữ gồm: 04 cây thuốc lá điếu hiệu Caraven-A, White horse, Sài Gòn; 01 túi xách màu đen hiệu CLASSIC bên trong đựng số tiền 2.462.000đ, 83 thẻ cào nạp tiền thuê bao di động mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphone; 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius mang BKS: 86B1-319.56; 01 chiếc áo khoác màu đen;
Tại bản thông báo kết luận định giá tài sản ngày 25/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ kết luận: Trị giá tài sản (gồm 01 túi xách, 83 thẻ cào các loại, 04 cây thuốc lá điếu các loại) là 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng).
Tổng trị giá tài sản mà L chiếm đoạt là 6.562.000 đồng (sáu triệu năm trăm sáu mươi hai nghìn đồng).
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả số tiền 2.462.000đ, 83 thẻ cào nạp tiền thuê bao di động mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphone, 04 cây thuốc lá điếu hiệu Caraven-A, White horse, Sài Gòn và 01 túi xách màu đen hiệu CLASSIC cho chị Cao Thị V. Chị V không yêu cầu L bồi thường gì thêm.
Đối với chiếc xe mô tô mang BKS: 86B1-319.56 mà L dùng làm phương tiện phạm tội là tài sản của chị Mang Thị L (SN: 1994, trú tại: thôn 2, xã P, huyện T, tỉnh Bình Thuận) cho L mượn làm phương tiện đi lại. Khi cho mượn thì chị Mang Thị L không biết là L sẽ dùng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Mang Thị L.
Cáo trạng số: 26/CTr - VKS ngày 20 tháng 4 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ quyết định truy tố bị cáo Hoàng Thị L về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm l và p khoản 1 Điều46; Điều 33 của Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.
Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa hôm nay, bi cáo Hoàng Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của những người làm chứng cũng như các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Ngày05/02/2017, Hoàng Thị L đã có hành vi lén lút lấy 2462.000 đồng; 83 thẻ cào điện thoại di động Viettel, Vinaphone, Mobiphone, 04 cây thuốc lá điếu hiệu Caraven- A, White horse, Sài Gòn và 01 túi xách màu đen hiệu CLASSIC của chị Cao ThịV. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội là 6.562.000 đồng. Do đó đã có đủ cơ sở kết luận Hoàng Thị L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự như kết luận của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đánh giá tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của chị V, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.
Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiếtđịnh khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Về các tình tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhưng bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 19/7/2016 trộm cắp tài sản trên địa bàn thị xã G, ngày06/3/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã G tuyên phạt 09 tháng tù tại bản án số:12/2017/HSST; ngày 30/12/2016 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, ngày22/9/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đăk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp 09 tháng tù của bản án số 12/2017/HSST ngày 06/3/2017 của Tòa án nhân dân thị xã G về tội: “Trộm cắp tài sản”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Song cũng xem xét sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có thai đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm l và p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn đang nuôi con nhỏ (sinh ngày 29/6/2017).
[2] Về vật chứng vụ án:
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 42 BLHS, Điều 76 BLTTHS:
Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT công an huyện Đ trả lại số tiền 2.462.000đ, 83 thẻ cào nạp tiền thuê bao di động mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphone, 04 cây thuốc lá điếu hiệu Caraven-A, White horse, Sài Gòn và 01 túi xách màu đen hiệu CLASSIC cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Cao Thị V; trả lại 01 chiếc xe mô tô loại xe YAMAHA Sirius mà Hoàng Thị L đã sử dụng làm phương tiện trộm cắp cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Mang Thị L.
Đối với 01 chiếc áo khoác màu đen do Hoàng Thị L làm công cụ phạm tội nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định pháp luật.
Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm l và p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Thị L 01 (một) năm tù. Thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Việc xử lý vậy chứng: Căn cứ Điều 42 BLHS, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo khoác màu đen (Tình trạng cụ thể có trong biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/02/2017).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Hoàng Thị L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 46/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 46/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về