Bản án 460/2020/HS-PT ngày 10/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 460/2020/HS-PT NGÀY 10/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 371/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

PHẠM THỊ T, sinh ngày 21/6/19XX tại N Đ; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn T V, xã C H, huyện V B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trọng N và bà Nguyễn Thị M (đều đã chết); có chồng Nguyễn Bá P và 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2019 đến ngày 17/01/2020, hiện tại ngoại có mặt.

 * Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị T:

Ông Nguyễn Hồng Thái - Luật sư Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng nghiệp thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng tháng 8/2019, Phạm Thị T đăng ký xin làm giúp việc dọn dẹp nhà theo giờ tại các hộ gia đình ở khu vực Hà Nội qua Công ty môi giới M M. Sau khi đăng ký, T được công ty M M giới thiệu đến dọn dẹp nhà theo giờ cho gia đình chị Trịnh Thị Bằng H (sinh năm 19XX) ở địa chỉ phòng X chung cư V G, M T, N T L, Hà Nội. Quá trình giúp việc, T được chị H tin tưởng nên từ khoảng giữa tháng 8/2019, chị H không thuê giúp việc qua công ty M M mà trực tiếp gọi cho T đến dọn dẹp nhà cho gia đình. Khoảng giữa tháng 11/2019, trong lúc dọn dẹp nhà cho gia đình chị H, T phát hiện thấy ngăn kéo tủ quần áo ở bên trong phòng ngủ của gia đình chị H không khóa đã mở ra xem, phát hiện trong ngăn kéo tủ có tiền và vàng nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Từ giữa tháng 11/2019 đến ngày 09/12/2019, T đã nhiều lần trộm cắp tài sản của chị H, cụ thể:

Lần thứ 1: Khoảng giữa tháng 11/2019, T đã trộm cắp 02 chiếc nhẫn vàng hiệu Rồng Thăng Long (gồm 01 nhẫn 03 chỉ và 01 nhẫn 02 chỉ) trong 01 túi vải màu đỏ và 1.500.000 đồng trong 01 phong bì để bên cạnh túi vàng. Sau khi trộm cắp tài sản, T mang chiếc nhẫn 03 chỉ vàng về Nam Định bán tại cửa hàng vàng ở thành phố Nam Định (T không nhớ tên và địa chỉ) được 12.300.000 đồng còn chiếc nhẫn 02 chỉ vàng T đến bán tại cửa hàng vàng C T (đường X xã L M, huyện V B, Nam Định) được 8.200.000 đồng.

Lần thứ 2: Khoảng 14 giờ ngày 28/11/2019, T tiếp tục mở ngăn kéo tủ quần áo bên trong phòng của chị H và trộm cắp 01 nhẫn vàng loại 3 chỉ vàng 9999 hiệu Rồng Thăng Long cùng 1.500.000 đồng, sau đó T mang chiếc nhẫn vàng đến cửa hàng vàng bạc T Đ (số X, phố T C, C N 1, B T L, Hà Nội) bán được 12.300.000 đồng.

Lần thứ 3: Khoảng 14 giờ ngày 05/12/2019, T tiếp tục trộm cắp 01 nhẫn vàng (loại 1 chỉ vàng 9999) hiệu Rồng Thăng Long và 1.000.000 đồng tiền mặt tại ngăn kéo tủ quần áo của chị H. Sau khi trộm cắp được tài sản, T đã mang nhẫn vàng đến cửa hàng vàng bạc T L của chị Lê Thị Thanh T (tại số X, phố T C, C N 1, B T L, Hà Nội) bán được 4.100.000 đồng.

Lần thứ 4: Khoảng 14h ngày 09/12/2019, T tiếp tục lấy trộm 01 nhẫn vàng Rồng Thăng Long (loại 1 chỉ vàng 9999) và 500.000 đồng tiền mặt trong ngăn kéo tủ quần áo của chị H sau đó mang đến cửa hàng vàng bạc T L (số X phố T C, C N 1, N T L, Hà Nội) bán được 4.100.000 đồng.

Ngày 12/12/2019, chị Trịnh Thị Bằng H phát hiện bị trộm cắp tài sản nên đã đến Cơ quan Công an trình báo sự việc. Cùng ngày, Phạm Thị T đến Cơ quan công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai số tiền chiếm đoạt được, T đã sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 507 ngày 22/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, xác định: chiếc nhẫn 03 chỉ mất giữa tháng 11/2019 trị giá 12.369.000 đồng; chiếc nhẫn 03 chỉ mất ngày 28/11/2019 trị giá 12.330.000 đồng; chiếc nhẫn 02 chỉ mất giữa tháng 11/2019 trị giá 8.246.000 đồng; chiếc nhẫn 01 chỉ mất ngày 05/12/2019 trị giá 4.136.000 đồng; chiếc nhẫn 01 chỉ mất ngày 09/12/2019 trị giá 4.120.000 đồng. Tổng trị giá 01 cây vàng Rồng Thăng Long trị giá 41.201.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Phạm Thị T đã trộm cắp của chị Trịnh Thị Bằng H là 45.701.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải T đi xác định địa điểm tiêu thụ tài sản nhưng không xác định và thu hồi được vật chứng. Chị Lê Thị Thanh T - chủ cửa hàng vàng bạc T L (số X, phố T C, C N 1, B T L, Hà Nội) nhận ra T nhưng chị T không nhớ T đến bán vàng hay mua vàng tại cửa hàng.

Ngày 15/12/2019, gia đình Phạm Thị T đã khắc phục bồi thường số tiền và trị giá tài sản bị mất cho chị Trịnh Thị Bằng H. Chị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Phạm Thị T.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Thị T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2019 đến ngày 17/01/2020.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/4/2020 bị cáo Phạm Thị T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo với lý do bị cáo hiện bị bệnh ung thư giai đoạn đầu; bị cáo là trụ cột trong gia đình, chồng ốm đau, con còn đang đi học.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Thị T, giảm cho bị cáo từ 3 đến 6 tháng tù, xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 18 đến 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa gửi bản luận cứ bào chữa với nội dung: Ngoài các tình tiết giảm nhẹ Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo thì đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng cho bị cáo thêm các tình tiết giảm nhẹ là bị cáo hiện mắc bệnh ung thư đang phải điều trị; gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sĩ là anh chồng bị cáo; bị cáo tự nguyện nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Luật sư đề nghị xem xét cho bị cáo Phạm Thị T để cho bị cáo sớm có cơ hội trở lại làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị T đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Thị T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Từ khoảng giữa tháng 11/2019 đến ngày 09/12/2019, tại phòng X chung cư V G, M T, N T L, Hà Nội, Phạm Thị T đã 04 lần có hành vi trộm cắp tiền, vàng với tổng trị giá tài sản là 45.701.000 đồng của chị Trịnh Thị Bằng H. Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Thị T đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Thị T xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã ra đầu thú; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản chiếm đoạt đã bồi thường trả cho bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo bốn lần trộm cắp tài sản trị giá mỗi lần trên 2.000.000 đồng của bị hại thuộc tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đã xử phạt tù giam đối với bị cáo Phạm Thị T về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội bởi bị cáo phạm tội nhiều lần là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, do vậy kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Phạm Thị T là không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Thị T mức hình phạt 24 tháng tù là còn có phần nghiêm khắc, bản thân bị cáo đang mắc bệnh nặng, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, chồng ốm đau con còn đang đi học; bị cáo đang phải thờ cúng liệt sĩ Nguyễn Bá Thái là anh chồng bị cáo; sau khi bị xét xử sơ thẩm bị cáo đã tích cực nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Do vậy nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm hòa nhập với xã hội thành công dân tốt.

[4] Bị cáo đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm nên ghi nhận cho bị cáo.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[6] Bị cáo Phạm Thị T kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự,

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2019 đến ngày 17/01/2020) về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ghi nhận bị cáo Phạm Thị T đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (Theo Biên lai thu tiền số: 3122 ngày 04/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội).

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

384
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 460/2020/HS-PT ngày 10/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:460/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;