Bản án 457/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 457/2020/HSST NGÀY 29/9/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 447/2020/HSST ngày 10/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 440./2020/QDXXST - HS ngày 11/9/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn S; Sinh ngày 10 tháng 05 năm 1982 Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh TH.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông: Nguyễn Đình Ch, sinh năm 1952 (Đã chết); Con bà: Hoàng Thị Th, sinh năm 1956; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 04; Vợ: Lại Thị C, sinh năm 1989; Con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2020;

Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2020). Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lại Thị C, sinh năm 1989(Có mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, TP Sông Công, tỉnh TH.

2. Anh Trần Văn D, sinh năm 1987 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ngân Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên Người chứng kiến: 1. Hà Minh T, sinh năm 1962(vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 04, phường Hương Sơn, TP TH, tỉnh TH.

2. Nguyễn Quang Th sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ; Tổ 3, P. Hoàng Văn Thu, TP TH, tỉnh TH

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 00 phút ngày 19/6/2020, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 3, phường Hương Sơn, thành phố TH phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai tên là Nguyễn Văn S (sinh năm 1982, HKTT: Tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh TH). Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện tại túi quần phía sau bên trái S đang mặc có 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng, S khai là Heroine mua để sử D cho bản thân. Ngoài ra còn thu giữ của S 03 điện thoại di động, 01 ví giả da, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 017273 mang tên Giang Văn H, 01 Giấy chứng nhận kiểm định số 1553170 của xe ô tô BKS: 89A-092.64, 01 Chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Văn S, 01 xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI SANTAFE BKS 89A-092.64 và số tiền 4.000.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn S và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TH đã tiến hành khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Văn S. Quá trình khám xét không phát hiện, thu giữ gì.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn S có khối lượng là 29,87 gam, lấy 0,58 gam niê m phong ký hiệu G gửi giám định, số còn lại niêm phong ký hiệu L lưu kho .

Tại bản Kết luận giám định số 832/KL-KTHS ngày 27/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu G gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là: 0,58 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là: 29,87 gam.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn S khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/6/2020, S một mình điều khiển xe ô tô BKS 89A- 092.64 từ nhà đến khu vực cổng Bến xe khách TH thuộc phường Đồng Quang, thành phố TH để tìm mua ma túy sử D cho bản thân. Tại đây, S gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine với giá 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Mua xong, S cất gói Heroine vào túi quần phía sau bên trái S đang mặc rồi điều khiển xe đến khu vực Nhà văn hóa Gang Thép thì bị tổ công tác của Công an tỉnh TH phát hiện, kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn S phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm:

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 4.000.000 đồng. Hiện đang được tạm gửi tại tài khoản của Công an thành phố TH thuộc Kho bạc Nhà nước tỉnh TH.

- 01 bì niêm phong ký hiệu L, bên trong chứa 29,29 gam ma túy (Heroine);

- 01 bì niêm phong ký hiệu G, bên trong chứa 0,548 gam ma túy (Heroine);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đã qua sử D, số IMEI1: 355228083321420, số IMEI2: 355229083321428; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử D, số IMEI1: 354390063682105; 01 điện thoại di động (không rõ nhãn hiệu) màu vàng đã qua sử D, số IMEI1:

355236002948157, số IMEI2: 355236002948165; 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH chờ xử lý.

- 01 xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI SANTAFE màu đen, BKS: 89A- 092.64, số máy: D4HA9U111259, số khung: KMHSJ81UBAU580405; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 017273 mang tên Giang Văn Hưng; 01 Giấy chứng nhận kiểm định số 1553170 của xe ô tô BKS: 89A-092.64. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TH đã trả lại các tài sản trên cho anh Trần Văn D (sinh năm 1987, trú tại thôn Ngân Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) là chủ sở hữu quản lý, sử D.

Tại bản cáo trạng số 449/CT-VKSTPTN, ngày 09/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh TH đã truy tố Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp D điểm g, khoản 2, 5 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 BLHS; Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 06 đến 07 năm tù giam. Phạt bổ sung bị cáo từ 5000.0000đồng đến 7.000.000 đồng.

- Vật chứng vụ án: Áp D Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy : 01 bì niêm phong ký hiệu L, bên trong chứa 29,29 gam ma túy (Heroine); 01 bì niêm phong ký hiệu G, bên trong chứa 0,548 gam ma túy (Heroine);

+ Trả lại cho chị Lại Thị C số tiền 4.000.000 đồng;

+ Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S.

+ Tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đã qua sử D, số IMEI1: 355228083321420, số IMEI2: 355229083321428; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử D, số IMEI1:

354390063682105; 01 điện thoại di động (không rõ nhãn hiệu) màu vàng đã qua sử D, số IMEI1: 355236002948157, số IMEI2: 355236002948165 để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

Về án phí: Áp D khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo S tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 19 giờ 00 phút ngày 19/6/2020, Tại tổ 3, phường Hương Sơn, thành phố TH, tỉnh TH, Nguyễn Văn S đã có hành vi tàng trữ 29,87 gam Heroine mục đích để sử D cho bản thân thì bị tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội : “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tội phạm và hình phạt của Nguyễn Văn S được quy định tại điểm g, khoản 2 Điu 249 Bộ luật Hình sự.

Nội dung Điều luật quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) Heroine, … có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

[4]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử D cho bản thân, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nhưng là người nghiện ma túy, nên đã dẫn bị cáo đi vào con đường phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy đinh tại điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp D mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác D giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Cần phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: Áp D điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS - Cần tịch thu tiêu hủy : + 01(một) bì niêm phong ký hiệu L( bên trong chứa chất ma túy). Mặt sau bì có chữ ký của Lê Xuân Hoàn, Đỗ Quang Trung, Ma Đình Cần, Nguyễn Văn S, hà Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thái, Trần Việt Đức cùng 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh TH; + 01(một) bì niêm phong ký hiệu G (bên trong chứa chất ma túy). Mặt sau bì có chữ ký của Ngô Thanh Tuấn, Nguyễn Thành Trung cùng 02 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh TH + Đối với số tiền 4.000.000 đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo S khai số tiền trên là của vợ bị cáo chị Lại Thị C, chị C khai số tiền trên đựng trong ví giả da màu nâu là tiền của chị buôn bán mà có không phải của bị cáo S, không dùng vào việc mua ma túy của S. Chị có đề nghị được trả lại cho chị số tiền trên. Xét lời khai của bị cáo và của chị Lại Thị C có căn cứ nên cần trả lại cho chị Lại Thị C số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) là phù hợp.

+ Trả lại cho bị cáo: 01(một) Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01(một) Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S.

+ Tạm giữ của bị cáo: + 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đã qua sử D, số IMEI 1: 355228083321420, số IMEI2:

355229083321428, vỡ màn hình; + 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử D, số IMEI1: 354390063682105; + 01(một) điện thoại di động (không rõ nhãn hiệu) màu vàng đã qua sử D, số IMEI1:

355236002948157, số IMEI2: 355236002948165 để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

+ Về chiếc xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI SANTAFE màu đen, BKS: 89A- 092.64, số máy: D4HA9U111259, số khung: KMHSJ81UBAU580405; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 017273 mang tên Giang Văn Hưng; 01 Giấy chứng nhận kiểm định số 1553170 của xe ô tô BKS: 89A-092.64. Quá trình điều tra, anh D khai chiếc xe trên anh mua của anh Giang Văn Hưng, có hợp đồng mua bán lập ngày 02/6/2020, tuy nhiên chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 10/6/2020 anh cho chị Lại Thị C mượn xe để tập thi giấy phép lái xe, anh không biết việc bị cáo S chồng chị C sử D chiếc xe trên vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TH đã trả lại các tài sản trên cho anh Trần Văn D (sinh năm 1987, trú tại thôn Ngân Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) là chủ sở hữu quản lý, sử D là phù hợp.

[8]. Các vấn đề khác:

- Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Văn S khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực cổng Bến xe khách TH thuộc phường Đồng Quang, thành phố TH nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

- Đối với anh Trần Văn D (sinh năm 1987, trú tại thôn Ngân Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) là chủ sở hữu xe ô tô BKS 89A-092.64, anh D không biết việc Nguyễn Văn S sử D chiếc xe vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh D.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy" 

Căn cứ vào: Điểm g, khoản 2, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S: 09 năm 6 tháng (Chín năm S tháng) tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/06/2020. Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đồng.

Áp D Điu 329 BLTTHS Quyết đnh tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án đ đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp D Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy : + 01(một) bì niêm phong ký hiệu L( bên trong chứa chất ma túy). Mặt sau bì có chữ ký của Lê Xuân Hoàn, Đỗ Quang Trung, Ma Đình Cần, Nguyễn Văn S, hà Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thái, Trần Việt Đức cùng 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh TH.

+ 01(một) bì niêm phong ký hiệu G (bên trong chứa chất ma túy). Mặt sau bì có chữ ký của Ngô Thanh Tuấn, Nguyễn Thành Trung cùng 02 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh TH + Trả lại cho chị Lại Thị C số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) (theo ủy nhiệm chi số 78 ngày 28/8/2020 của Công an thành phố TH) + Trả lại cho bị cáo: 01(một) Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01(một) Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S.

+ Tạm giữ của bị cáo: + 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đã qua sử D, số IMEI 1: 355228083321420, số IMEI2:

355229083321428, vỡ màn hình; + 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử D, số IMEI1: 354390063682105; + 01(một) điện thoại di động (không rõ nhãn hiệu) màu vàng đã qua sử D, số IMEI1:

355236002948157, số IMEI2: 355236002948165 để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 469 ngày 04/9/2020 và ủy nhiệm chi số 78 ngày 28/8/2020 ).

3. Án phí: Áp D khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 457/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:457/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;