TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 453/2018/HCPT NGÀY 15/10/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 15 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số 57/2018/TL-PT ngày 29 tháng 3 năm 2018 về việc “Khiếu kiện về quản lý đất đai” do có kháng cáo của Ủy ban nhân dân huyện B đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2017/HCST ngày 22/09/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh H.
1. Người khởi kiện: Ông Trần Xuân K, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1956 (là vợ). Đều trú tại: Thôn P, xã N, huyện B, tỉnh H. Bà G ủy quyền cho ông K tham gia tố tụng, có mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông K: Ông Phạm Văn H; Địa chỉ: 5/107 đường C, thành phố H, tỉnh H (Theo Giấy ủy quyền ngày 08/5/2017), có mặt.
2. Người bị kiện:
- Ủy ban nhân dân (UBND) huyện B, đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trung K – Chủ tịch Chủ tịch UBND huyện B, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Chủ tịch UBND huyện B: Ông Nguyễn Trung K. Địa chỉ: Thị trấn S, huyện B, tỉnh H, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho UBND huyện B và Chủ tịch UBND huyện B: Ông Lương Đức C - Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B (Theo Văn bản số 473/UBND-VP ngày 09/10/2018), có mặt.
- Chủ tịch UBND tỉnh H: Ông Nguyễn Dương T; Địa chỉ: Số 45 đường Q, phường Q, thành phố H, tỉnh H, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho Chủ tịch UBND tỉnh H: Ông Nguyễn Hữu L, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 21/02/2008, UBND huyện B ban hành Quyết định số 591/QĐ-UBND về việc thu hồi 12.435,34m2 tại ba xã M, N, O, huyện B giao cho cho ban quản lý các dự án giao thông thuộc Sở Giao thông vận tải tỉnh H để nâng cấp, cải tại đường 394 (đoạn từ Km10+500 đến Km13+700). Trong đó có hộ gia đình ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G bị thu hồi 30,23m2.
Ngày 25/12/2008, UBND tỉnh H ban hành Quyết định số 4967/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để cải tạo, nâng cấp đường 394.
Ngày 14/12/2010, UBND huyện B ban hành quyết định thu hồi 18,48m2 đất của 27 hộ nằm ngoài phạm vi 6,25m tính từ tim đường 394 (141 hộ còn lại có diện tích bị thu hồi nằm trong phạm vi 6,25m tính từ tim đường nên UBND huyện không ban hành quyết định thu hồi đất). Hộ gia đinh ông K và bà G không nhận được quyết định thu hồi đất.
Ngày 16/12/2010, UBND huyện B ban hành Quyết định số 2869/QĐ-UBND phê duyệt chi tiết phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung, trong đó bồi thường 18,48m2 đất ở của 27 hộ nằm ngoài phạm vi 6,25m tính từ tim đường.
Theo ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G: Gia đình ông K và bà G có thửa đất ở diện tích 287 m2 tại thôn P xã N, có nguồn gốc của cụ Trần Văn L (cha của ông K) cho từ năm 1979, sử dụng ổn định không có tranh chấp. Thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp đường 394 (km10+500, km 13+700) đoạn qua xã N, gia đình ông bà bị thu hồi 30,23m2. Tại Quyết định số 4967/QĐ-UBND ngày 25/12/2008, UBND tỉnh H phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ đợt 1; UBND huyện B không bồi thường mà chỉ hỗ trợ về đất với giá 50.000đ/m2. Trong khi các hộ dân ở hai xã giáp ranh (xã M và xã O) cũng có đất bị thu hồi khi thực hiện dự án này thì họ lại được nhận bồi thường với giá 3.000.000đ/m2. Cho rằng quyền lợi của mình chưa đảm bảo, hộ ông K cùng một số hộ dân thôn P có đất bị thu hồi đã làm đơn khiếu nại gửi UBND huyện B đề nghị xét lại nguồn gốc sử dụng đất và xác định chiều rộng mặt đường 194 (nay là đường 394); đề nghị bồi thường khi thu hồi đất.
Ngày 26/3/2013, Chủ tịch UBND huyện B ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 901/QĐ-UBND với nội dung không chấp nhận khiếu nại của các hộ dân trong đó có hộ ông K và bà G.
Ông K và bà G tiếp tục có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh H.
Ngày 30/10/2014, Chủ tịch UBND tỉnh H ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 2687/QĐ-UBND với nội dung không chấp nhận khiếu nại của các hộ dân, trong đó có hộ ông K và bà G.
Ngày 25/3/2015, ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G khởi kiện, sau đó bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh H:
- Buộc UBND huyện B ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt và bồi thường theo giá đất ở đối với diện tích 29,63m2 đất bị thu hồi (Vì UBND huyện B đã bồi thường bổ sung theo giá đất ở 0,6m2 trong tổng số 30,23m2 đất bị thu hồi).
- Hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 của Chủ tịch UBND huyện B liên quan việc không bồi thường đất cho hộ ông K và bà G.
- Hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại số 2687/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh H liên quan việc không bồi thường đất cho hộ ông K và bà G.
Theo UBND huyện B và Chủ tịch UBND huyện B:
Thực hiện các Quyết định số 1138/QĐ-UBND ngày 29/3/2006; Quyết định số 591/QĐ-UBND ngày 21/02/2008 của UBND tỉnh H về việc phê duyệt dự án, thu hồi đất phục vụ dự án cải tạo nâng cấp đường 394 (Km12+500 – Km13+700) đoạn qua xã N, huyện B. UBND huyện B đã ban hành Quyết định số 893/QĐ-UBND ngày 30/8/2006 thành lập ban giải phóng mặt bằng, đồng thời triển khai giao nhiệm vụ cho ban GPMB phối hợp với UBND xã N tiến hành các quy trình về thu hồi đất như thông báo cho các hộ dân, đo đạc kiểm đếm, xác định loại đất, lập phương án đền bù, hỗ trợ việc thu hồi đất, tài sản trên đất.
Căn cứ các quy định về hành lang an toàn giao thông theo Nghị định số 203/NĐ-HĐBT ngày 21/12/1982; bản đồ 299; bản xác định nguồn gốc sử dụng đất ngày 04/10/2008, ngày 06/10/2010 do UBND xã N lập, biên bản kiểm kê và các hồ sơ quản lý, sử dụng đất thể hiện đường 194 cũ (nay là 394) qua xã N đoạn đường nhà ông K, bà G có chiều rộng 12,5m; diện tích 30,23m2 đất thu hồi thuộc dự án chiếm dụng tiếp giáp thửa đất của ông K, bà G thuộc đất hành lang giao thông do Nhà nước quản lý, không phải đất của hộ gia đình nên UBND huyện B không ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt, không bồi thường mà chỉ hỗ trợ về đất đối với hộ Khích và bà G là đúng quy định của pháp luật.
Chủ tịch UBND huyện B xác định việc ban hành Quyết định số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 về việc giải quyết khiếu nại là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Do đó, UBND huyện B và Chủ tịch UBND huyện B giữ nguyên hành vi hành chính, quyết định hành chính bị khởi kiện, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K và bà G.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh H:
Khi ông K và bà G có đơn khiếu nại, Chủ tịch UBND tỉnh đã thành lập đoàn cán bộ tiến hành thẩm tra xác minh các quy trình thực hiện đền bù hỗ trợ khi thu hồi đất hộ gia đình ông K và bà G và hơn 90 hộ dân khác tại thôn P, xã N, huyện B. Căn cứ kết quả xác minh chủ tịch UBND tỉnh xác định chiều rộng mặt đường 394 mà UBND huyện B xác định là 12,5m tuy chưa có cơ sở chính xác nhưng có lợi cho người dân nên chấp nhận phương án này, tuy nhiên tại Điều 2 của Quyết định số 2687/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 Chủ tịch UBND tỉnh đã giao cho UBND huyện B tiến hành rà soát lại, nếu người dân chưa có các loại giấy tờ về sử dụng đất hợp pháp nhưng họ ra ở, sử dụng trước ngày 21/12/1982 mà được thể hiện trên bản đồ 299 thì xem xét bồi thường cho họ.
Chủ tịch UBND tỉnh H xác định việc ban hành Quyết định số 2687/QĐ-UBND đúng trình tự, đúng pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K và bà G.
Đại diện theo pháp luật của UBND xã N, huyện B, ông Nguyễn Hữu Tám trình bày: Các cán bộ UBND xã hiện tại đều là người kế nhiệm, nên UBND xã N tôn trọng ý kiến, quan điểm của các cán bộ tiền nhiệm của các nhiệm kỳ trước, đề nghị nhà nước bồi thường cho họ khi thu hồi đất thực hiện dự án cải tạo nâng cấp đường 394. UBND xã cung cấp cho tòa án văn bản do UBND tổ chức đo đạc xác định diện tích, ranh giới giữa các hộ lập năm 1993 và năm 2001, trong đó có hộ ông K, xác định diện tích đất trên đã được thu thuế hàng năm.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2017/HCST ngày 22 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh H, quyết định.
Áp dụng Điều 30, 32, 193 Luật tố tụng hành chính; khoản 4 Điều 50, khoản 2 Điều 42 Luật đất đai 2003; khoản 2 Điều 3 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; khoản 8 Điều 8 Nghị định 197/2004/NĐ-CP; Nghị định 203/HĐBT ngày 21/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/QH14 quy định về mức thu án, lệ phí tòa án. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G:
- Buộc UBND huyện B phải ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt đối với diện tích 29,63 m2 đất ở của ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G để phục vụ dự án cải tạo, nâng cấp đường 394 đoạn qua xã N (Km12+500 – Km13+700) huyện B.
- UBND huyện B thực hiện bồi thường cho ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G diện tích 29,63m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở theo quy định của pháp luật.
- Hủy một phần quyết định giải quyết khiếu nại số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 của Chủ tịch UBND huyện B về nội dung không công nhận khiếu nại của ông Trần Xuân K.
- Hủy một phần quyết định giải quyết khiếu nại số 2687/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của chủ tịch UBND tỉnh H về nội dung không công nhận khiếu nại của ông Trần Xuân K.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 26/10/2017, UBND huyện B có đơn kháng cáo đề nghị: Giữ nguyên Quyết định số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 của Chủ tịch UBND huyện B. Hủy yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền, lợi ích của UBND huyện B và Chủ tịch UBND huyện B trình bày: Theo Biên bản thẩm định ngày 18/9/2018 tổng diện tích gia đình ông K hiện đang sử dụng là 329m2; tăng so với diện tích đo đạc năm 2001 là 42m2; diện tích tăng thêm phía trước là 27m2 và diện tích tăng thêm phía sau là 15m2. Từ đó có đủ căn cứ xác định diện tích 29,63m2 đất bị thu hồi không thuộc diện tích 287m2 đất của gia đình ông K, mà thuộc đất hành lang giao thông. Do đó, UBND huyện B đã không ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt, không bồi thường đối với diện tích 29,63m2, chỉ hỗ trợ công vượt lập cho hộ dân sử dụng đất; đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K và bà G.
Người bảo vệ quyền, lợi ích của UBND tỉnh H trình bày: nhất trí ý kiến trình bày của UBND huyện B.
Theo ý kiến của người khởi kiện: Diện tích đất 287m2 có nguồn gốc của cụ L (cha của ông K) cho vợ chồng ông K từ năm 1979; hộ ông K sử dụng ổn định, không có tranh chấp; đất gia đình ông K sử dụng tiếp giáp với đường 194 cũ. Do đó, khi Nhà nước thu hồi thì phải ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt và bồi thường về đất ở tại thời điểm ra quyết định thu hồi. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của UBND huyện B, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Hà Nội: Về thủ tục tố tụng:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của luật tố tụng hành chính.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng quy định Luật tố tụng hành chính. Đơn kháng cáo của UBND huyện B đúng quy định tại Điều 174, 175, 176 Luật tố tụng hành chính nên đủ điều kiện xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Tại Biên bản kiểm kê ngày 21/9/2006 thể hiện diện tích 29,63m2 là đất vượt lập và gia đình ông K đã nhận tiền hỗ trợ công vượt lập. Tại phiên tòa phúc thẩm ông K xác nhận bà G đã ký biên bản và nhận tiền. Theo Biên bản thẩm định ngày 18/9/2018 tổng diện tích gia đình ông K hiện đang sử dụng là 329m2; tăng so với diện tích đo đạc năm 2001 là 42m2; diện tích tăng thêm phía trước là 27m2 và diện tích tăng thêm phía sau là 15m2. Từ đó có đủ căn cứ xác định diện tích 29,63m2 đất bị thu hồi không thuộc diện tích 287m2 đất của gia đình ông K, mà thuộc đất hành lang giao thông. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K và bà G là thiếu căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính chấp nhận kháng cáo của UBND huyện B, sửa bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, nghe ý kiến trình bày, tranh luận của các bên đương sự, quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Quyết định giải quyết khiếu nại số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 của Chủ tịch UBND huyện B và Quyết định giải quyết khiếu nại số 2687/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh H là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính; đối với yêu cầu khi thu hồi đất phải ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt và bồi thường theo giá đất ở đã được giải quyết tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 901/QĐ-UBND và Quyết định giải quyết khiếu nại số 2687/QĐ-UBND. Ngày 25/3/2015, ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G khởi kiện là vẫn còn thời hiệu khởi kiện; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh H theo quy định tại Điều 30, 32, khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về hình thức, trình tự, thẩm quyền ban hành Quyết định số 901/QĐ-UBND và Quyết định số 2687/QĐ-UBND:
Theo quy định của Luật đất đai, Luật khiếu nại, Luật tổ chức chính quyền Chủ tịch UBND huyện B và Chủ tịch UBND tỉnh H ban hành các quyết định giải quyết khiếu nại là đảm bảo về hình thức, đúng về trình tự và thẩm quyền.
[2.2]. Về nội dung của Quyết định số 901/QĐ-UBND và Quyết định số 2687/QĐ-UBND:
Tại biên bản xác định ranh giới mốc giới tháng 10/2001, theo hiện trạng sử dụng thể hiện thửa số 150, tờ bản đồ số 4 do hộ ông K quản lý, sử dụng có diện tích 287m2; theo bản đồ địa chính diện tích thể hiện là 287m2.
Ông K cho rằng cống thoát nước hiện thực bây giờ vẫn thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông K vì đất gia đình ông K ở giáp đường 194 cũ và đường 194 cũ chỉ có 06m. Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/9/2018 thể hiện từ tim đường 394 đến diện tích đất ông K đang sử dụng là 6,25m và 5,58m bao gồm cả rãnh xây; từ tim đường 394 đến mép đường 394 là 3,75m;
diện tích gia đình ông K đang sử dụng là 329m2 đất ở nông thôn. Tổng diện tích đất hiện tại tăng thêm so với số liệu đo đạc năm 2001 là 42m2, trong đó diện tích tăng phía trước 27m2, không bao gồm có rãnh xây (rãnh xây cách đất gia đình ông K đang sử dụng 2,5m và 2,1m), diện tích tăng phía sau là 15m2. Với diện tích thực tế gia đình ông K đang sử dụng không bao gồm rãnh xây và cách tim đường 6,25m và 5,58m thì diện tích đất tăng thêm 42m2 nên không có căn cứ chấp nhận ý kiến của ông K.
Tại Biên bản kiểm kê ngày 21/9/2006 để phục vụ dự án cải tạo, nâng cấp đường thì diện tích đất của hộ ông K, bà G mà UBND sử dụng giải phóng mặt bằng là 30,23m2 đất vượt lập, phi nông nghiệp (bà G có ký tên chủ hộ). Tại phiên tòa phúc thẩm ông K xác nhận năm 2006, bà G là người ký Biên bản kiểm kê ngày 21/9/2006 và gia đình đã nhận tiền hỗ trợ là 50.000 đồng/m2 và không có ý kiến.
Phía người bị kiện cho rằng diện tích thu hồi của hộ ông K 29,63m2 thuộc công trình giao thông, không thu hồi vào đất của hộ ông K nên UBND huyện đã không ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất cho hộ ông K mà chỉ hỗ trợ công bồi đắp là có cơ sở.
Như vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K cho rằng phải ban hành quyết định thu hồi đối với diện tích 29,63m2 đất và phải bồi thường theo giá đất ở. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu huỷ một phần Quyết định số 901/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện B và Quyết định số 2687/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh H. Toà án cấp sơ thẩm đã chưa đánh giá đúng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; không thẩm định hiện trạng hộ gia đình ông K hiện đang sử dụng diện tích đất để xem xét diện tích đất gia đình ông K bị thu hồi 29,63m2 là đất ở hay đất vượt lập, mà đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K là chưa đủ căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần chấp nhận kháng cáo của UBND huyện B và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sửa bản án sơ thẩm.
[3]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của UBND huyện B được chấp nhận nên không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm. Ông Trần Xuân K phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Chủ tịch UBND tỉnh H và Chủ tịch UBND huyện B không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Về chi phí thẩm định phía UBND huyện B tự nguyện chịu mọi chi phí, nên không yêu cầu người khởi kiện phải chịu chi phí thẩm định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính:
Chấp nhận kháng cáo của UBND huyện B, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2017/HCST ngày 22 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh H, cụ thể:
Bác yêu cầu buộc UBND huyện B phải ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt đối với diện tích 29,63 m2 đất ở của ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G để phục vụ dự án cải tạo, nâng cấp đường 394 đoạn qua xã N (Km12+500 – Km13+700) huyện B.
Bác yêu cầu buộc UBND huyện B thực hiện bồi thường cho ông Trần Xuân K và bà Nguyễn Thị G diện tích 29,63 m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở theo quy định của pháp luật.
Bác yêu cầu hủy một phần Quyết định số 901/QĐ-UBND ngày 26/3/2013 giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện B về nội dung không công nhận khiếu nại của ông K và bà G.
Bác yêu cầu hủy một phần Quyết định số 2687/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 giải quyết khiếu nại của chủ tịch UBND tỉnh H về nội dung không công nhận khiếu nại của ông K và bà G.
Án phí: UBND huyện B không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm hoàn trả cho UBND huyện B 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0002358 ngày 30/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự tỉnh H. Chủ tịch UBND tỉnh H, UBND huyện B và Chủ tịch UBND huyện B không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Ông Trần Xuân K phải chịu 300.000đồng án phí hành chính sơ thẩm được đối trừ 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AB/2014/0003316 ngày 10/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự tỉnh H.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 453/2018/HCPT ngày 15/10/2018 về khiếu kiện quản lý đất đai
Số hiệu: | 453/2018/HCPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 15/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về