Bản án 453/2017/HSST ngày 26/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 453/2017/HSST NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 12 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân Phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:460/2017/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Đình K, sinh ngày 10/6/1979.

- Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Tổ dân phố K, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 4/12;Nghề nghiệp: Không; Con ông: Dương Đình B, sinh năm 1944( Đã chết); Con bà: Chu Thị G, sinh năm 1949; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; Có vợ là Dương Thị Giang, sinh năm 1986; Có 02 con, con lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2009.

- Tiền án 01: Tại bản án số 53 ngày 29/02/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Dương Đình K 09 tháng tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Tiền sự. Không.

- Nhân thân Năm 2010 Công an phường Trung Thành xử phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi “ Trộm cắp tài sản”.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 25/9/2017 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

*Ni b hại: Anh Trần Văn H, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ dân phố P, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử vắng mặt).

*Ni có quyền li,nghĩa v liên quan: Anh Bùi Văn C, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Tổ P, phường Q, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. ( có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người làm chng: 1. Anh Dương Đình H,sinh năm 1987.

Địa chỉ: Tổ dân phố K, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Dương Đình K,sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ dân phố K, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

3. Ông Nguyễn Văn H,sinh năm 1966.

Địa chỉ: Tổ F, phường T, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. (Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NHẬN THẤY

Bị cáo Dương Đình K bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15h00' ngày 21/9/2017, Dương Đình K đang điều trị bệnh tại phòng số12, tầng 3 - K nội tổng hợp - Bệnh viện G thuộc tổ F, phường T, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. Khi nằm điều trị trong phòng số 12, K nhìn thấy anh Trần Văn H (sinh năm: 1993; HKTT: Tổ dân phố P, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên (Là bệnh nhân nằm điều trị cùng phòng với K) có sử dụng 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đỏ; 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng và 01 (Một) chiếc máy tính bảng nhãn hiệu HUAWEI màu trắng - bạc. Sau khi sử dụng, anh H để điện thoại di động và máy tính bảng trong ngăn tủ tầng 2 của chiếc tủ để đồ bệnh nhân kê sát đầu giường anh H nằm và cắm dây sạc điện rồi đi ngủ. Do bản thân K là người nghiện ma túy, nên K đã nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại di động và chiếc máy tính bảng của anh H để đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 04h00' ngày 22/9/2017, K ngủ dậy thấy các bệnh nhân trong phòng bệnh và anh H đều đang ngủ say, xung quanh không thấy có ai. K liền đi từ giường K nằm đến vị trí chiếc tủ để đồ kê ở gần đầu giường của anh H nằm rồi dùng tay phải nhẹ nhàng mở ngăn tủ ra lấy 02 (Hai) chiếc điện thoại di động cho vào trong túi quần bên trái phía trước và lấy 01 (Một) chiếc máy tính bảng giấu vào phía trong áo của K đang mặc rồi đi bộ thẳng ra khu vực nhà để xe của Bệnh viện. Tại đây K tìm nhặt giấy báo bọc kín 02 điện thoại và chiếc máy tính bảng lại cho vào trong 01 chiếc túi nilong rồi giấu trên nóc nhà để xe sau đó quay lại giường bệnh tiếp tục nằm ngủ. Đến 8h00' cùng ngày 22/9/2017, K ở bệnh viện gọi điện thoại cho Dương Đình H( sinh năm: 1987; HKTT: Tổ dân phố K, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên (Là cháu họ của K) bảo H: "Đến đường tròn G cho chú gửi ít đồ" H đồng ý. Sau đó, K từ phòng điều trị đi bộ ra khu vực nhà để xe của Bệnh Viện lấy chiếc túi nilon bên trong có 02 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc máy tính bảng mà K đã trộm cắp được mang ra cổng Bệnh viện đứng chờ H đến để đưa cho H và nhờ H đem về cất giữ hộ để K về sẽlấy lại sau, sau đó K quay lại phòng bệnh nằm điều trị. Sau khi H đem chiếc túi nilon của K gửi về nhà, do tò mò muốn xem bên trong đó có đồ vật gì nên H đã mở ra xem thì thấy 02 (Hai) điện thoại di động và 01 (Một) chiếc máy tính bảng nêu trên, H đã thử mở khóa màn hình của 02 điện thoại và 01 máy tính bảng đó nhưng không mở được nên H đã gọi điện cho Dương Đình K ( sinh năm: 1997; HKTT: Tổ dân phố K, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên là em họ của H) đến nhà H nhờ K mở khóa màn hình hộ nhưng K cũng không mở được và H đã cất đi chờ K về thì trả lại cho K.

Khoảng 12h00' ngày 23/9/2017, K đến nhà H lấy lại 02 chiếc điện thoại di động và 01 máy tính bảng trên rồi đến cửa hàng sửa chữa, mua bán điện thoại di động "ANH C" thuộc tổ K, phường Q, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên bán 02 chiếc điện thoại di động cho anh Bùi Văn C (sinh năm: 1983; HKTT: Xóm N, xã L, Huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Là chủ cửa hàng) với giá 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) và K thuê anh C chạy lại phần mềm chiếc máy tính bảng với giá 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Sau khi anh C chạy lại phần mềm chiếc máy tính bảng cho K thì anh C đưa lại cho K cùng số tiền 1.650.000đ (Một triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) là số tiền đã mua 02 chiếc điện thoại di động đã được trừ đi 50.000đ tiền C chạy lại phần mềm máy tính bảng. K cầm tiền rồi đem chiếc máy tính bảng giấu trên nóc nhà xe sau K khám bệnh của Bệnh viện Gang Thép Thái Nguyên. Sau đó, K đi mua ma túy để sử dụng và tiêu xài cá nhân hết 650.000đ (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng), số tiền còn lại là1.000.000đ (Một triệu đồng) khi Công an phường Trung Thành, TP Thái Nguyên mời K lên làm việc thì K đã tự nguyện giao nộp cho Công an phường Trung Thành số tiền trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 309/HĐĐGTS ngày 28/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP Thái Nguyên kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng có trị giá 4.000.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 dán nhãn đỏ đã qua sử dụng có trị giá 2.000.000 đồng và 01 máy tính bảng nhãn hiệu HUAWEI màu trắng bạc đã qua sử dụng có trị giá1.000.000 đồng. Tổng trị giá là 7.000.000 đồng

Tại Cơ quan điều tra, Dương Đình K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của K phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án .

Vật chứng của vụ án: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đỏ; 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng và 01 (Một) chiếc máy tính bảng nhãn hiệu HUAWEI màu trắng - bạc . Hiện tài sản đã được thu hồi trả lại cho anh Trần Văn H là chủ sở hữu quản lý sử dụng. Anh H nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác; Số tiền 1.000.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Bản cáo trạng số 369/CT-VKS ngày 27/11/2017 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Dương Đình K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho anh Bùi Văn C số tiền 1.000.000đ do bị cáo phạm tội mà có (bị cáo đã giao nộp số tiền 1.000.000 đồng tại cơ quan điều tra)

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại được tài sản,không có yêu cầu nên không xem xét; Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Bùi Văn C số tiền 700.000 đồng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Dương Đình K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bản kết luận định giá, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 04 giờ ngày 22/9/2017, tại phòng số 12, tầng 3, khoa nội tổng hợp, Bệnh viện G thuộc tổ F, phường T, thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên. Dương Đình K đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 và 01 (Một) chiếc máy tính bảng nhãn hiệu HUAWEI màu trắng - bạc của anh Trần Văn H có tổng trị giá là 7.000.000 đồng sau đó đem bán cho Bùi Văn C được 1.700.000 đồng. K đã tiêu xài hết 700.000 đồng còn 1.000.000 đồng K đã giao nộp cho Cơ quan điều tra . Hiện tài sản trên đã được thu håi trả lại cho anh H quản lý, sử dụng. Anh H không yêu cầu đề nghị gì. Anh C đề nghị K phải bồi thường cho anh số tiền 1.700.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự;

Nội dung khoản 1 Điều 138 BLHS quy định như sau:

“1. Người nào trm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, ý thức coi thường pháp luật và không có quyết tâm cải tạo tu dưỡng để trở thành người công dân lương thiện nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cần cách ly xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích,bị cáo phạm tội lần này là thuộc trường hợp tái phạm, do vậy bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo Dương Đình K sau khi phạm tội và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn và đã được thu hồi ngay trả lại cho người bị hại, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị cho bị cáo được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b Điều 46 Bộ luật hình sự do bị cáo tự nguyện giao nộp giao nộp tại cơ quan điều tra và tự nguyện bồi thường thiệt hại một phần cho anh C số tiền 1.000.000 đồng. Xét bị cáo K đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản, bị cáo rõ ràng ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn tiếp tục đem bán tài sản trộm cắp lấy tiền tiêu xài cho bản thân. Sau khi bị phát hiện, bị cáo mới có ý thức tự nguyện giao nộp số tiền 1.000.000 đồng tại Cơ quan điều tra. Vì vậy đây không thuộc trường hợp bị cáo tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 46 BLHS. Đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát là không phù hợp. Tuy nhiên xét bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, vì vậy khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo, HĐXX xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành C dân có ích cho gia đình và xã hội và cũng để bị cáo thấy rõ lượng Kn hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, trở thành người tốt. Mức hình phạt mà vị đại diện viện kiểm sát đề nghị nêu trên có phần nghiêm khắc đối với bị cáo.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật Hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo Dương Đình K còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt của anh Trần Văn H đã được thu hồi trả lại, anh H không có yêu cầu gì nên hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với anh Bùi Văn C là người mua số tài sản mà Dương Đình K trộm cắp được bao gồm 02 chiếc điện thoại di động với giá 1.700.000 đồng anh C không biết tài sản trên do K phạm tội mà có. Anh C đã tự giác giao nộp lại tài sản tại cơ quan Điều tra. Theo biên bản lấy lời khai và đơn xin xét xử vắng mặt anh C đề nghị bị cáo bồi thường số tiền 1.700.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã bán số tài sản trộm cắp được cho anh C với giá 1.700.000 đồng, bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết 700.000 đồng, còn 1.000.000 đồng bị cáo chưa kịp tiêu xài thì bị bắt giữ, bị cáo đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền trên để trả lại cho anh C. Xét thấy cần trả lại số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của bị cáo cho anh Bùi Văn C là phù hợp. Buộc bị cáo phải bồi thường tiếp cho anh C 700.000 đồng là số tiền bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết.

Về xử lý vật chứng: Tạm giữ để trả lại cho anh Bùi Văn C số tiền 1.000.000đồng do bị cáo tự nguyện giao nộp là số tiền bị cáo đã bán tài sản trộm cắp cho anh C.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Đình K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo: Dương Đình K: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/9/2017.

Áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về trách nhiêm dân sự: Áp dụng Điều 42 BLHS, Điều 584, 585, 586, 589 và Điều 357 BLDS 2015: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Bùi Văn C số tiền 1.700.000 đồng (Được trừ số tiền 1.000.000 đồng bị cáo đã giao nộp và hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên theo biên bản giao nhận vật chứng số 74 ngày 22/12/2017; ủy nhiệm chi số 03 ngày 06/12/2017). Bị cáo còn phải bồi thường cho anh Bùi Văn C số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tng bên phải thi hành án còn phi chu khoản tin lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tạm giữ số tiền 1.000.000đ để đảm bảo việc thi hành án đối với bị cáo.

(Theo biên bản về việc giao biên bản giao nhận vật chứng số 74 ngày 22/12/2017 tại Chi cc thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên, ủy nhiệm chi số 03 ngày 06/12/2017)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ( Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án  được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 453/2017/HSST ngày 26/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:453/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;