TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 45/2024/DS-PT NGÀY 29/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT; YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 199/2023/TLPT-DS ngày 04 tháng 4 năm 2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2022/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3014/2023/QĐPT-DS ngày 05 tháng 12 năm 2023; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1957; Địa chỉ: Số A, tổ D, ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn N, sinh năm 1965; địa chỉ: A, tổ E, khu phố N, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh ( có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Văn P, Công ty L2, Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Phạm Công D, sinh năm 1971 2. Bà Lê Thị Kim H1, sinh năm 1971;
Cùng địa chỉ: số A, tổ B, ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1959; Địa chỉ: số A, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
2. Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1963; Địa chỉ: đường số B, tổ C, ấp K, xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3. Ông Nguyễn Ngọc P1, sinh năm 1967; Địa chỉ: tổ A, ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
4. Ông Nguyễn Văn L1, sinh năm 1970; Địa chỉ: số A, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
5. Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1973; Địa chỉ: số A, tổ A, ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
6. Ủy ban nhân dân thị xã H, tỉnh Tây Ninh (sau đây viết tắt là UBND thị xã H) (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc H là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 5 năm 2021, Biên bản ghi lời khai của bà Nguyễn Thị Ngọc H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Năm 1978 cha mẹ bà H là cụ Nguyễn Ngọc G (chết năm 1993) và cụ Lê Thị S1 (chết năm 2012) có nhận chuyển nhượng của ông S2 diện tích 8.000m2 đất tại ấp T, xã T, huyện H. Đến năm 1982, nhà nước làm kênh thủy lợi TNI đi qua đất của cha mẹ bà diện tích 5.000m2, cụ thể: trong lòng đái kênh 2.300m2, phần bãi vật liệu 2.700m2. Diện tích còn lại 3.000m2 mẹ bà chuyển nhượng cho ông Trần Văn Đ1 năm 1992. Sau đó ông Đ1 chuyển nhượng diện tích 3.000m2 cho vợ chồng ông D, bà H1. Năm 1999, ông D, bà H1 đăng ký quyền sử dụng phần đất 3.000m2 nhận chuyển nhượng của ông Đ1 và đăng ký bao chiếm luôn phần đất diện tích 2.700m2 đất của cha mẹ bà nằm trong bãi vật liệu kênh TNI. Như vậy, năm 1982 nhà nước làm kênh TNI và đã lấy của cha mẹ bà 5.000m2 nhưng chỉ làm kênh 2.300m2, còn lại 2.700m2 thì phải trả lại cho mẹ bà. Việc ông D đã tự ý bao chiếm và kê khai phần đất 2.700m2 của cha mẹ bà là trái quy định pháp luật. Kết quả đo đạc hiện trạng bà H xác định vị trí, diện tích đất tranh chấp là 3.806,3m2. Do đó, bà H yêu cầu ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 trả lại cho anh chị em của bà diện tích 3.806,3m2 thuộc thửa số 178, 179, tờ bản đồ số 28 tại ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02853 do UBND huyện H (nay là thị xã H) cấp ngày 03/12/1999 cho ông D đối với phần đất này.
Tại các biên bản ghi lời khai bị đơn ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 trình bày:
Phần đất diện tích 5.953m2 thửa số 178, 179, tờ bản đồ 28 tọa lạc tại ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh ông, bà đang sử dụng là do nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn Đ1 từ năm 1996 và sử dụng phần đất này từ đó cho đến nay. Theo ông, bà biết, thì phần đất này do ông Đ1 nhận chuyển nhượng từ cha bà H là cụ Nguyễn Ngọc G. Khi thỏa thuận chuyển nhượng diện tích khoảng 5.000m2, bao gồm: 2.500m2 đất rẫy và 2.500m2 đất hầm không sử dụng được; việc chuyển nhượng chỉ lập giấy tay giao cho vợ chồng ông, bà giữ vì các phần đất này chưa ai được cấp GCNQSDĐ. Sau khi nhận chuyển nhượng ông, bà đã đổ đất sang lắp phần đất hầm bằng phẳng và trồng nhãn, tắc. Năm 1996 nhà nước có chủ trương cho các hộ dân đăng ký kê khai đất nên vợ chồng bà đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1999. Quá trình sử dụng đất ổn định cho đến nay không ai tranh chấp, ông Nguyễn Ngọc S là con cụ G, cụ Lê Thị Sáu m của bà H. Bà H sống giáp đất ông, bà nhưng cũng không có ý kiến. Do đó, nay bà H yêu cầu ông, bà trả đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông, bà là không đúng nên ông, bà không đồng ý.
Tại Văn bản số 834/UBND ngày 06/7/2021, Ủy ban nhân dân thị xã H trình bày:
Phần đất ông Phạm Công D sử dụng có nguồn gốc sang nhượng của ông Trần Văn Đ1. Quá trình sử dụng ông D, bà H1 có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất thửa 178, 179, tờ bản đồ số 28, diện tích 5.953m2 loại đất màu. Căn cứ hồ sơ xin cấp giấy của ông D, Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận QSD đất xã T xét duyệt, niêm yết công khai đủ điều kiện cấp giấy cùng các hộ gia đình khác trên địa bàn xã T. Ngày 03/12/1999 U QĐ cấp giấy CN.QSD đất cho hộ ông Phạm Công D diện tích 5.953m2 thuộc thửa số 178, 179, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp T, xã T, thị xã H. Việc cấp giấy CN.QSD đất cho hộ ông Phạm Công D là đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Nên UBND thị xã H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc H về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02853/QSD/53/QĐ-UB do UBND thị xã H cấp ngày 03/12/1999 cho hộ ông Phạm Công D.
Lời trình bày của ông Nguyễn Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc L, ông Nguyễn Ngọc P1, Nguyễn Văn L1, Nguyễn Ngọc S thể hiện:
Các ông bà là con ruột của cụ Nguyễn Ngọc G (chết năm 1993) và cụ Lê Thị S1 (chết năm 2012) và là anh em ruột với bà Nguyễn Thị Ngọc H. Các đương sự thống nhất với nội dung đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung của bà H. Yêu cầu vợ chồng ông D, bà H1 trả lại cho gia đình các đương sự 3.806,3m2, đồng thời cũng không đồng ý bồi thường cây trồng trên đất cho ông D, bà H1.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2022/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã tuyên xử:
Căn cứ vào Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Điều 12 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc L, ông Nguyễn Ngọc P1, ông Nguyễn Ngọc S và ông Nguyễn Văn L1 đối với ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 và Ủy ban nhân dân thị xã H về các yêu cầu sau:
- Yêu cầu ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 trả phần đất diện tích 3.806,3m2 tại ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; tứ cận: Đông giáp kênh TN1, dài 108,42m; Tây giáp thửa 178; dài 87,07m; Nam giáp đường; dài 40,04m + 5,01m; Bắc giáp thửa 170, 169; dài 11,18m + 6,34m + 7,77m + 11,3m.
- Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02853/QSDĐ/53/QĐ- UB ngày 03/12/1999 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho ông Phạm Công D đối với phần diện tích đất nêu trên.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về các chi phí tố tụng, về án phí, các quy định về thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/10/2022 bà Nguyễn Thị Ngọc H làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H có đại diện hợp pháp trình bày trình bày: Giữ yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày:
Bị đơn không chứng minh được nguồn gốc sử dụng đất, không chứng minh nhận chuyển nhượng đất từ ai, bị đơn cũng khai không thống nhất về quá trình nhận chuyển nhượng đất, lúc thì khai nhận chuyển nhượng từ ông T, lúc thì khai nhận chuyển nhượng từ ông Đ1. Về giấy tờ chuyển nhượng đất, lúc thì Bị đơn khai có giấy tờ chuyển nhượng, lúc thì khai không có giấy tờ chuyển nhượng. Điều này phản ánh rằng lời khai của ông D về nguồn gốc đất là thiếu trung thực. Các lời khai này đều không có chứng cứ để xác định lời khai nào mới đúng sự thật. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của ông D để cho rằng ông D sử dụng đất hợp pháp là không đúng pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn.
Giấy sang nhượng đất ruộng ngày 20/02/1993 không có giá trị pháp lý: Cụ Nguyễn Ngọc G (bên bên chuyển nhượng) đã chết trước ngày ký kết giấy sang nhượng đất ruộng nêu trên (trích lục khai tử của cụ Nguyễn Ngọc G xác nhận cụ G đã chết vào ngày 01/01/1993). Nhưng Giấy sang nhượng đất ruộng lại ghi ngày 20/02/1993 là không có giá trị pháp lý. Ngoài ra ông Trần Văn Đ1 cũng xác nhận không có việc mua phần diện tích đất tranh chấp từ cụ Nguyễn Ngọc G.
Bị đơn không kê khai nguồn gốc sử dụng đất, hồ sơ cấp GCN không đúng theo quy định của pháp luật: Bị đơn không có bất kỳ chứng cứ nào về việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Đ1 hoặc ông T. Do đó, trong hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất của Bị đơn không thể có “Các giấy tờ pháp lý kèm theo về nguồn gốc của đất đang sử dụng” như quy định tại tiểu mục 3, mục I.2.3 Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC. Nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D là không đúng trình tự pháp luật.Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu Hủy một phần GCN quyền sử dụng đất số 02853 QSDĐ/53/QĐ-UB (H) là đánh giá không khách quan các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, áp dụng sai quy định pháp luật dẫn đến sai lầm khi đưa ra quyết định ở cấp sơ thẩm.
Những phân tích trên đây cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá không khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm cũng không rà soát đầy đủ các quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC của Tổng cục Địa chính ngày 16 tháng 3 năm 1998. Chính vì, việc cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là trái pháp luật, trái với lẽ công bằng. Đề nghị sửa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khỏi kiện của nguyên đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật: Xét thấy, Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các thành viên Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Về yêu cầu kháng cáo của đương sự: Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc H, giữ y bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H kháng cáo trong thời hạn luật định, bà H là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm, theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn ông Phạm Công D và bà Lê Thị Kim H1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.
[2] Xét về nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc H:
Về nguồn gốc đất: bà H cho rằng, đất tranh chấp thuộc tổng diện tích đất được mẹ bà là cụ Lê Thị S1 nhận chuyển nhượng của ông S2 vào năm 1978, nhưng không có giấy tờ chứng minh. Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, bị đơn xác nhận trước khi nhận chuyển nhượng đất từ ông Trần Văn Đ1, phía bị đơn đã cày thuê, làm thuê cho ông Đ1 trên phần đất này. Mặc khác, căn cứ tờ “Giấy sang nhượng đất ruộng ngày 20-2-1993” thì cha bà H là cụ S1 đã nhượng cho ông Đ1 phần đất gọi là hầm phế liệu. Như vậy, có cơ sở xác định từ năm 1993, phần đất này đã không còn quyền sử dụng của gia đình bà H nữa.
Về quá trình sử dụng đất: Bà H trình bày, bà nhận chuyển nhượng từ năm 1978, nhưng phần đất tranh chấp là hầm phế liệu, lòng sâu nên không sử từ lúc nhận chuyển nhượng đến khi phát sinh tranh chấp là năm 2016. Tại phiên tòa, phía người đại diện của bà H cho rằng trước khi giao cho nhà nước làm kênh thì gia đình bà H có nuôi cá nhưng không có chứng cứ chứng minh. Sau khi nhận chuyển vợ chồng ông D, bà H1 là người sử dụng, san lắp đất và trồng cây ăn trái từ năm 1996 cho đến nay. Khi ông D, bà H1 sử dụng đất, cụ S1 còn sống và nhà cụ S1, ông S (con cụ S1) sinh sống giáp đất tranh chấp nhưng không ai có ý kiến tranh chấp, ngăn cản việc sử dụng đất của ông D, bà H1. Như vậy, có cơ cở thấy rằng trước khi ông D, bà H1 san lấp đất thì phần đất tranh chấp là đất hầm không có giá trị, không sử dụng được nên gia đình cụ G, cụ S1 từ bỏ quan tâm, không sử dụng đất.
Về kê khai đăng ký cấp GCNQSDĐ: Hồ sơ địa chính lập năm 1989 thể hiện: phần diện tích đất bà H tranh chấp nằm trong tổng diện tích 5.380m2 tiếp giáp kênh TN1 thuộc các thửa 112, 113, 114 tờ bản đồ số 6, chủ sử dụng là tập đoàn S3; năm 1998: thuộc thửa 178, 179 do ông D kê khai đăng ký. Tại phiên tòa, phía nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp đã được cụ Lê Thị S1 kê khai tại UBND xã T đối với các thửa 145, 146, 147, 148, 149, 150, 151 tờ bản đồ số 28 và xuất trình bà photo Sổ mục kê đất xã T được lập ngày 20-11-2001. Tại sổ mục kê này thể hiện: các thửa 145, 146, 147, 148, 149, 150, 151 tờ bản đồ số 28 này hoàn toàn không phải là các thửa đất bà H đang tranh chấp vì cũng trong sổ mục kê này thửa đất 178, 179 do ông D kê khai đăng ký. Như vậy, phía gia đình bà Hiền t trước đến nay không kê khai đăng ký và cũng không thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất phần đất này.
Với những nhận định nêu trên xét, ông D là người sử dụng đất công khai, liên tục, ổn định và có kê khai đăng ký, được UBND thị xã H cấp GCNQSDĐ; phía bà H không chứng minh được việc gia đình bà sử dụng đất hợp pháp, thực tế cũng không sử dụng đất và cũng không kê khai đăng ký.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn bà H cũng không đưa ra chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo cũng như là yêu cầu khởi kiện của mình.
Do vậy xét thấy bản án sơ thẩm xử không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc L, ông Nguyễn Ngọc P1, ông Nguyễn Ngọc S và ông Nguyễn Văn L1 đối với ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 và Ủy ban nhân dân thị xã H về các yêu cầu sau: Yêu cầu ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 trả phần đất diện tích 3.806,3m2 tại ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; tứ cận: Đông giáp kênh TN1, dài 108,42m; Tây giáp thửa 178; dài 87,07m; Nam giáp đường; dài 40,04m + 5,01m; Bắc giáp thửa 170, 169; dài 11,18m + 6,34m + 7,77m + 11,3m. - Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02853/QSDĐ/53/QĐ-UB ngày 03-12-1999 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho ông Phạm Công D đối với phần diện tích đất nêu trên là có căn cứ pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị Ngọc H do bà là người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 48/2022/DSST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Áp dụng vào Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc L, ông Nguyễn Ngọc P1, ông Nguyễn Ngọc S và ông Nguyễn Văn L1 đối với ông Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 và Ủy ban nhân dân thị xã H về các yêu cầu sau:
- Yêu cầu anh Phạm Công D, bà Lê Thị Kim H1 trả phần đất diện tích 3.806,3m2 tại ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; tứ cận: Đông giáp kênh TN1, dài 108,42m; Tây giáp thửa 178; dài 87,07m; Nam giáp đường; dài 40,04m + 5,01m; Bắc giáp thửa 170, 169; dài 11,18m + 6,34m + 7,77m + 11,3m.
- Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02853/QSDĐ/53/QĐ- UB ngày 03-12-1999 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho ông Phạm Công D đối với phần diện tích đất nêu trên.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị Ngọc H.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 45/2024/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 45/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về