TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH - TỈNH B
BẢN ÁN 45/2022/HSST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 16/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th - tỉnh B. Toà án nhân dân huyện Th mở phiên toà xét xử công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2022/TLST-HS ngày 06/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 41/2022/QĐXXST-HS ngày 31/5/2022, đối với bị cáo:
LÊ ĐỨC TH, sinh năm 1994.
Trú tại: Thôn H - xã H - huyện Q - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đức Kh, sinh năm 1965 và bà Đỗ Thị Ú, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B, có mặt ở điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh B.
* Người làm chứng:
1. Ông VŨ VĂN L, sinh năm 1962.
Trú tại: Thôn Ng, H, T - xã M - huyện Th - tỉnh B. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Bà VŨ THỊ N, sinh năm 1958. Vắng mặt tại phiên tòa.
3. Anh VŨ ĐĂNG V, sinh năm 1989. Vắng mặt tại phiên tòa.
Cùng trú tại: Thôn C - xã M - huyện Th - tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 15 phút ngày 20/01/2022, tại khu vực công chùa Khánh Lâm thuộc địa phận thôn C - xã M - huyện Th - tỉnh B, trong lúc tuần tra Công an xã M phát hiện 01 đối tượng nam thanh niên đang ngôi trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave @ màu đen bạc, biên kiểm soát 28N1-072.71 có biểu hiện vi phạm pháp luật nên đã yêu cầu kiểm tra, đối tượng tự khai tên Lê Đức Th, sinh năm 1994 ở thôn H - xã H - huyện Q - tỉnh B. Tiến hành kiểm tra đã phát hiện trong lòng bàn tay trái của Th có 01 gói nhỏ được bọc bên ngoài là giấy ôli có dòng kẻ vuông và vạch mực màu đỏ, mở ra bên trong có 01 gói giấy màu trắng có hoa văn hình vuông và có số 13, bên trong gói giấy màu trắng có chứa chất bột màu trắng. Th khai nhận đây là chất ma túy vừa mua được của đối tượng tên T, mục đích để về sử dụng. Sau đó, Công an xã M đã tiến hành thu giữ gói giấy này và niêm phong trong phong bì thư dán kín có chữ ký của những người tham gia theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Công an xã M còn thu giữ của Th 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu xám có số seri FK1PR1DGG5QJ, số IMEI 35439106878000, gắn thẻ sim số 0931.556.873; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen, gắn thẻ sim số 0982.406.836 và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave @ màu đen bạc, biển kiểm soát 28N1-072.71.
Công an xã M đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa Lê Đức Th cùng vật chứng về bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th để điều tra theo thẩm quyền.
Tại Kết luận giám định số: 181/KLGĐMT-PC09 ngày 22/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong gói giấy màu trắng có hoa văn hình vuông màu xanh và số 13 (Được bọc ngoài bằng lớp giấy ôli có dòng kẻ vuông và những vạch mực màu đỏ) gửi giám định có khối lượng 0,1560 gram là ma túy, loại ma túy Heroine.
Cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 05/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố bị cáo Lê Đức Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Lê Đức Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai nhận tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Th và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố. Về nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ bị cáo khai nhận là do bị cáo mua được của đối tượng tên T nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.
Cũng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Đức Th và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Đức Th từ 12 tháng đến 18 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/01/2022. Miễn áp dụng toàn bộ hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 181/KLGĐMT-PC09 ngày 22/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, có số seri FK1PR1DGG5QJ, số IMEI 35439106878000, gắn thẻ sim số 0931.556.873 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng, gắn thẻ sim số 0982.406.836. Nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án. Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 chiếc USB chứa file ghi âm, ghi hình buổi hỏi cung bị cáo Lê Đức Th vào ngày 26/01/2022.
Trong phần tranh luận, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th công bố bản luận tội, bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay. Thể hiện: Hồi 15 giờ 15 phút ngày 20/01/2022, tại khu vực cổng chùa Khánh Lâm thuộc địa phận thôn C - xã M - huyện Th - tỉnh B. Công an xã M - huyện Th đã phát hiện và bắt quả tang Lê Đức Th đang có hành vi tàng trữ trái phép nhằm mục đích để sử dụng 0,1560 gram ma túy, loại ma túy Heroine theo như Kết luận giám định số: 181/KLGĐMT- PC09 ngày 22/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.
Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Lê Đức Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong tình hình hiện nay, nhất là tội phạm về ma túy.
Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đồng thời tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử áp dụng khi lượng hình để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét thấy, bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, mục đích bị cáo tàng trữ ma túy chỉ để sử dụng nên miễn áp dụng toàn bộ hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Liên quan trong vụ án này, theo bị cáo khai nhận còn có đối tượng tên T là người bán ma túy cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo chỉ nhớ được đối tượng tên T này cao khoảng 1,7m, dáng người đậm, tóc cắt cua màu đen, mặc áo khoác màu đen, mặc quần bò dài màu xám, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, không có yếm và biển kiểm soát chứ không biết rõ được tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng tên T ở đâu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã ra Thông báo truy tìm đối tượng T, nhưng chưa có kết quả nên không có căn cứ để xác minh, làm rõ. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã tách hành vi bán ma túy của đối tượng tên T cho bị cáo ra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Ngoài ra, khi tổ Công an xã M bắt quả tang đối với bị cáo còn có ông Vũ Văn L, bà Vũ Thị N và anh Vũ Đăng V chứng kiến sự việc. Tại phiên tòa hôm nay, ông L, bà N và anh V vắng mặt nhưng quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, việc đưa ông L, bà N và anh V vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người làm chứng là có cơ sở, đúng theo quy định.
[3] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 181/KLGĐMT-PC09 ngày 22/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, có số seri FK1PR1DGG5QJ, số IMEI 35439106878000, gắn thẻ sim số 0931.556.873 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng, gắn thẻ sim số 0982.406.836. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã làm rõ những chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo, nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave @ màu đen bạc, biển kiểm soát 28N1-072.71 bị cáo sử dụng đi mua ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định chiếc xe mô tô nêu trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Lê Đức Kh (Là bố đẻ của bị cáo) cho bị cáo mượn để đi làm. Ngày 20/01/2022, bị cáo tự ý lấy xe mô tô nêu trên đi để mua ma túy về sử dụng ông Kh không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã trả lại cho ông Kh là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 chiếc USB chứa chứa file ghi âm, ghi hình buổi hỏi cung bị cáo Lê Đức Th vào ngày 26/01/2022. Đây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật.
[4] Về án phí: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Lê Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lê Đức Th 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/01/2022 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.
Về vật chứng của vụ án: Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 181/KLGĐMT-PC09 ngày 22/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.
Trả lại cho bị cáo 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, có số seri FK1PR1DGG5QJ, số IMEI 35439106878000, gắn thẻ sim số 0931.556.873 và 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng, gắn thẻ sim số 0982.406.836. Nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
(Theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th).
Về án phí: Buộc bị cáo Lê Đức Th phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 45/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 45/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về