Bản án 45/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Huỳnh Thanh Đ, sinh năm 2000, tại An Phú, An Giang; Nơi cư trú: Ấp An H, xã Khánh A, huyện An P, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn K và bà Huỳnh Thị Kim T; tiền án, tiền sự: chưa; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Huỳnh Thị Kim T, sinh năm 1969; Cư trú: Ấp An H, xã Khánh A, huyện An P, tỉnh An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 31/12/2020, Tổ công tác phòng chống dịch Covid-19 của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình phối hợp cùng Công an xã Khánh An tuần tra đến khu vực tổ 27, ấp An H, xã Khánh A, huyện An P thì phát hiện Huỳnh Thanh Đ đi bộ hướng vành đai biên giới Campuchia về Việt Nam có biểu hiện nghi vấn nhập cảnh trái phép, nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện bên trong túi quần trước bên phải của Đ có cất giấu 01 bọc nylon trong suốt bên ngoài có dòng chữ COTTON BUDS, Good, CTY TNHH MTV SX – TM – XNK THỊNH PHÁT một đầu có rãnh khóa, viền màu đỏ bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy), lực lượng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ cùng tang vật.

Quá trình điều tra xác định: Sau khi xuất cảnh sang Campuchia để làm thuê, vào ngày 31/12/2020 Huỳnh Thanh Đ cùng với 02 người bạn là L và T đang sinh sống bên Campuchia (không rõ tên họ, địa chỉ) rủ nhau hùn tiền mua ma túy để sử dụng, trong đó Đ hùn 300.000 đồng, còn L và T hùn 700.000 đồng. Sau đó Đ lấy tiền đưa cho V (cũng đang sống bên Campuchia, không rõ tên họ, địa chỉ) nhờ mua ma túy và đem về đưa cho Đ, L và T cùng nhau sử dụng.

Sau khi sử dụng ma túy, đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Đ lấy số ma túy còn dư cất giấu vào túi quần trước bên phải, rồi kêu L và T dùng xuồng máy đưa Đ từ Campuchia về lại Việt Nam. Khi về đến bờ sông thuộc tổ 27, Ấp An H, xã Khánh A, huyện An P, Đ lên bờ đi bộ về nhà thì bị Tổ công tác của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình phát hiện bắt quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 03/KLGT-PC09(MT) ngày 03/01/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang xác định: Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng 0,9128 gam.

Ngày 06/01/2021, Huỳnh Thanh Đ bị khởi tố điều tra. Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số: 03/KLGT- PC09(MT) ngày 03 tháng 01 năm 2021) có in dấu tròn màu đỏ của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình – Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa và Nguyễn Mạnh Long. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi giám định, khối lượng 0,8575 gam, Methamphetamine.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng). Cáo trạng số 22/CT-VKSAP-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 truy tố Huỳnh Thanh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Đ khai nhận: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31/12/2020, bị cáo được bạn từ Campuchia đưa về Việt Nam bằng xuồng, khi qua Việt Nam thì bị lực lượng Biên phòng cùng Công an kiểm tra phát hiện trên người bị cáo có chứa ma túy nên mời về trụ sở để làm rõ, bị cáo thừa nhận hành vi mua ma túy (loại Methamphetamine) về cất giấu để sử dụng, khối lượng thu giữ trên người bị cáo là 0,9128g.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định, vật chứng thu giữ trong vụ án.

Lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phù hợp lời khai của bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, đã ăn năn hối hận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, nhưng họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Xét việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người vắng mặt là phù hợp quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Xét hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi mua ma túy, rồi mang về cất giấu để sử dụng; lời khai bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng trong vụ án; Kết luận giám định và các chứng cứ khác thu giữ trong hồ sơ.

Từ đó, đủ cơ sở xác định bị cáo Huỳnh Thanh Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,9128g, loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật; biết được tác hại của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo còn thể hiện sự xem thường pháp luật, không chỉ nguy hiểm cho xã hội, mà còn trực tiếp gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa phương nên cần có mức án nghiêm, đúng pháp luật, nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

Từ những phân tích nêu trên, có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, Luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Huỳnh Thanh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và đề nghị mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi bị cáo thực hiện.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra, xét hỏi tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; đây được xem tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo còn có thể bị phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, nhưng xét hoàn cảnh gia đình bị cáo đang khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với đối tượng tên L, T có hành vi mua ma túy sử dụng và đối tượng tên V mua giúp ma túy, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Phú đang tiếp tục làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau, là đúng quy định nên không xem xét.

[6] Xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số 03/KLGT-PC09 (MT) ngày 03 tháng 01 năm 2021), có in dấu tròn màu đỏ của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình – Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đ Khoa và Nguyễn Mạnh Long. Bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, khối lượng 0,8575g Methamphetamine, là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng) là tài sản cá nhân bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Huỳnh Thanh Đ 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/01/2021). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số 03/KLGT-PC09 (MT) ngày 03 tháng 01 năm 2021), có in dấu tròn màu đỏ của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình – Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đ Khoa và Nguyễn Mạnh Long. Bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, khối lượng 0,8575g Methamphetamine.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Thanh Đ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú ngày 28/4/2021).

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Thanh Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Hình sự năm 2015.

4. Về quyền kháng cáo: Thời hạn kháng cáo của bị cáo, của đương sự có mặt hoặc đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/6/2021). Đối với đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

(Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;