Bản án 45/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M, sinh ngày 18 tháng 10 năm 1977 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 5, khối 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1949 (đã chết) và bà Tạ Thị M, sinh năm 1952; chưa có vợ, con; tiền án: Tại bản án số 47/HSST ngày 21-7-2015 Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù giam về tội Cướp tài sản (chưa được xóa án tích), tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30-3-2010 bị Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bằng hình thức cảnh cáo do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 25/QĐ-XPHC (đã được xóa tiền sự). Ngày 13-6-2010 bị công an xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bằng hình thức cảnh cáo do có hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 03/QĐ-CAX (đã được xóa tiền sự). Ngày 10-7-2010 Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã theo Quyết định số 136/QĐ-UB (đã được xóa tiền sự). Ngày 23-10-2010 bị Đồn công an Đ, Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bằng hình thức cảnh cáo do có hành vi Trộm cắp tài sản theo quyết định không số (đã được xóa tiền sự). Ngày 09-6-2011 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo Quyết định số 82/QĐ-UBND (đã được xóa tiền sự); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29-12-2020, tạm giam từ ngày 01-01-2021 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 29-12-2020 tại khu vực bãi đất trống khu Phú Lộc I, tổ 4, khối 7, phường H, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố L phát hiện bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn M đang thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý. Tang vật thu giữ: 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng đựng 04 (bốn) gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng, 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen lắp kèm sim số thuê bao 0366.783.730, 01 điện thoại di động Samsung màu trắng lắp kèm sim số thuê bao 0386.412.406 và số tiền 248.000 đồng (hai trăm bốn mươi tám nghìn đồng).

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Văn M khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 29-12-2020, bị cáo sử dụng điện thoại lắp số thuê bao 0366.783.730 gọi cho người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) và hẹn nhau ở khu P, phường H, thành phố L để giao dịch ma túy. Khi gặp H, bị cáo trao đổi mua 10 gói (mười gói) ma túy Heroin với giá 800.000 đồng với mục đích để bán kiếm lời. Số ma túy mua được bị cáo mang về nhà sử dụng hết 02 gói rồi lấy giấy vệ sinh màu trắng bọc bên ngoài từng gói còn lại để bán cho các đối tượng sử dụng ma túy khác để kiếm lời. Khoảng 09 giờ ngày 29-12-2020, bị cáo nhận được điện thoại của một nam thanh niên tên Q (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy, M đã bán cho Q 02 (hai) gói ma túy được 200.000đồng tại khu vực đường tàu thuộc đường B. Khoảng 10 giờ cùng ngày, bị cáo tiếp tục nhận được điện thoại của một nam thanh niên không rõ lai lịch gọi đến hỏi mua ma túy, bị cáo đã bán cho nam thanh niên này 01 gói ma túy được 100.000 đồng. Cùng địa điểm và thời gian trên, bị cáo bán cho nam thanh niên khác 01 (một) gói ma túy với giá 100.000 đồng nhưng đối tượng này không đủ tiền nên trả trước cho bị cáo 50.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng để cầm cố. Khoảng 15 giờ cùng ngày, bị cáo nhận được tin nhắn và cuộc gọi điện thoại từ số 0976.289.510 của một nam thanh niên không rõ lai lịch mua 04 (bốn) gói ma túy, hẹn địa điểm giao dịch mua bán ma túy tại khu bãi đất trống P, phường H, thành phố L, khi đang chuẩn bị giao dịch thì bị bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 37/KLGĐ-PC09 ngày 30-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma tuý Heroine, có tổng khối lượng 0,468 gam (đã trừ bì).

Tại Kết luận giám định số 57/KLGĐ-PC09 ngày 06-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam 248.000 đồng trong gói niêm phong gửi giám định là tiền thật.

Tại Cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 05-4-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 36 tháng đến 42 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen và 01 điện thoại di động Samsung màu trắng, số tiền 248.000 đồng (hai trăm bốn mươi tám nghìn đồng) do có liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Phiên tòa vắng mặt ông Nguyễn Văn L là người chứng kiến. Ông Nguyễn Văn L đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của ông Nguyễn Văn L không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn L theo quy định.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 29-12-2020 tại khu vực bãi đất trống P, tổ 4, khối 7, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn bị cáo Nguyễn Văn M có hành vi mua bán trái phép 0,468 gam chất ma túy Heroine. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ căn cứ để xác định bị cáo phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự xã hội tại địa phương, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo từng bị kết án về tội Cướp tài sản, hiện chưa được xóa án tích lần phạm tội này của bị cáo được coi là tái phạm, vì vậy bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Hào được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về nhân thân, bị cáo là người sử dụng ma túy và đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tuy các tiền sự này đều đã được xóa nhưng thể hiện bị cáo là người thiếu tu dưỡng bản thân và coi thường pháp luật.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo gây ra, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[7] Biên bản xác M ngày 29-01-2021 thể hiện bị cáo không có việc làm, không có thụ nhập riêng, sống phụ thuộc vào gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[8] Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ điện tín nhưng đến nay chưa nhận được kết quả trả lời của Tổng công ty viễn thông Viettel. Người đàn ông tên H bán ma túy, người đàn ông tên Q và các đối tượng mua ma túy với bị cáo, Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác M, xử lý trong vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau khi giám định thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, 01 vỏ bao thuốc là Thăng Long màu vàng là vật không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đối với 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen là công cụ phương tiện phạm tội, 01 điện thoại di động Samsung màu trắng và số tiền 248.000 đồng là tài sản do phạm tội mà có nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đã xảy ra, đúng với các quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn luật định theo quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điều 296; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-12-2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là chất ma túy; 01 (một) vỏ bao thuốc là Thăng Long màu vàng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen số seri 357732101657739, lắp kèm sim số thuê bao 0366.783.730 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng, số IMEI 351560071382566/01 lắp kèm sim số thuê bao 0386.412.406; số tiền 248.000 đồng (hai trăm bốn mươi tám nghìn đồng).

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02-4-2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;