Bản án 45/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN-TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 38/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn D, sinh năm 2001 tại Hà Nội. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Thanh H, xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Trần Thị T; vợ là: Nguyễn Thị Minh T1 và có 01 con sinh năm 2018; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2019/HSST ngày 18/10/2019, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt: 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm kể từ ngày tuyên án, về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Vương Đức G, sinh năm 1996 tại Hà Nội. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Thanh H, xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Đức S và bà Nguyễn Thị H; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trịnh Việt A, sinh năm 1979, vắng mặt Địa chỉ: Tổ X, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng ngày 10/12/2020 đến ngày 30/12/2020, Phạm Văn D có đến ở cùng với Vương Đức G tại nhà của anh Vũ Ngọc T ở thôn Lâm T, xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, Hà Nội (anh T nhờ G trông nhà hộ). Cả hai bàn bạc với nhau góp tiền đi mua ma túy về bán kiếm lời. Tuy nhiên G không có tiền góp nhưng G nói sẽ giới thiệu khách mua ma túy cho D. Khoảng 12h ngày 26/12/2020, D đưa cho G 1.000.000đ để đi mua ma túy . Sau đó, cả hai đi xe buýt đến khu vực xã Thanh Xuyên, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên để mua ma túy. Khi đến nơi, G trực tiếp vào mua ma túy của một người nam giới không quen biết. G đặt vấn đề mua 1.000.000đ tiền ma túy, được người nam giới đưa cho 01 túi ni lon chứa ma túy đá và 1,5 viên nén màu hồng loại ma túy ngựa. Sau khi mua được ma túy, cả hai mang về. G đưa cho D 01 cân điện tử để chia ma túy và hướng dẫn D chia ma túy “ Một gói 0,3g bán với giá 300.000đ, gói 0,5g bán với giá 500.000đ”. D đã chia toàn bộ số ma túy mua được thành 15 gói và D , G đã cùng nhau sử dụng hết 04 gói.

Khong 10h ngày 31/12/2020, Trịnh Việt A có điện thoại cho D đặt vấn đề mua 01 túi ma túy đá với giá 500.000đ. D đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy tại dốc Dây Diều thuộc thôn Lâm T, xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Sau đó, D đi bộ ra đường quốc lộ 35 để chờ Việt A đến nhận ma túy thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ, thu giữ của D 01 túi ni lon (KT 01 x 01cm) chứa tinh thể màu trắng; 01 hộp nhựa bên trong có 10 túi ni lon gồm có 01 túi chứa tinh thể màu trắng, 02 túi chứa các mảnh nén màu hồng và tinh thể màu trắng; 01 túi chứa các mảnh nén màu hồng và 01 điện thoại di động.

Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn đã tiến hành khám xét nơi ở của D tại nhà anh Vũ Ngọc T thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 cân điện tử.

Tại kết luận giám đinh số 338/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng KTHS-Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 10 túi nilon thu giữ của Phạm Văn D là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,636g.

-Các mảnh viên nén màu hồng bên trong 03 túi ni lon thu giữ của Phạm Văn D là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,142g.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Vương Đức G: Do G không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Đối với anh Vũ Ngọc T: Quá trình điều tra, anh T khai có nhờ G trông nhà hộ được 01 tháng. Ngày 26/12/2020, G có thông báo cho anh biết việc cho D đến ở cùng G và anh đồng ý. Tuy nhiên việc G và D có hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì anh không biết. Do vậy, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn không đề cập xử lý anh T trong vụ án này là phù hợp.

Đối với anh Trịnh Việt A là người đặt vấn đề mua ma túy của D: Quá trình điều tra, anh Việt A khai nhận: Mặc dù đã đặt vấn đề mua 500.000đ ma túy của D, nhưng do không có tiền nên anh đã đến điểm hẹn để từ chối không mua ma túy của D thì bị cơ quan Công an kiểm tra thu giữ của anh 01 điện thoại di động. Cơ quan Công an đã tiến hành cho anh Việt A xét nghiệm ma túy, kết quả anh Việt A dương tính với ma túy. Do vậy, Cơ quan Công an đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Việt A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với hình thức phạt tiền là phù hợp.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt trên. Các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 08/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố Phạm Văn D và Vương Đức G, về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, (áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65 đối D), Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106, Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn D mức án từ 40 tháng đến 42 tháng tù. Tổng hợp với 30 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 115/HSST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án với mức án từ 5 năm 10 tháng đến 06 năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam.

Xử phạt: Vương Đức G mức án từ 38 tháng đến 40 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về tang vật chứng: Tịch thu các tang vật đã thu giữ.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Ngày 26/12/2020, Phạm Văn D và Vương Đức G đã có hành bàn bạc, góp tiền cùng nhau đi mua ma túy với mục đích để bán kiếm lời. Khoảng 10h ngày 31/12/2020 tại dốc D thuộc thôn Lâm T, xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, Phạm Văn D đang chờ để giao ma túy cho Trịnh Việt A thì bị cơ quan Công an huyện Sóc Sơn đến kiểm tra thu giữ của D 10 túi ma túy loại Methamphetamin có tổng khối lượng 2,778g. Hành vi của các Phạm Văn D và Vương Đức G đã cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố các bị cáo về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh trật tự công cộng, đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như làm ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, việc đưa các bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Bộ luật hình sự đã quy định.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự phân công câu kết chặt chẽ nên không phải là phạm tội có tổ chức.

Xem xét về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội với vai trò ngang nhau.

Xem xét về nhân thân của các bị cáo: Đối với bị cáo D phạm tội lần này trong thời gian thử thách theo bản án số 115/2019/HSST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù và tổng hợp với hình phạt 30 tháng tù tại bản án số 115 ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo G mặc dù nhân thân của bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu nhưng căn cứ vào tính chất vụ án, loại tội bị cáo vi phạm cũng thấy cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định mới có đủ tác dụng giáo dục cải tạo, bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng”. Tuy nhiên xét các bị cáo là con nghiện, không có công việc ổn định nên Hội đồng xét xử miễn không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn có thu giữ của các bị cáo 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của bị cáo Phạm Văn D và giám định viên, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và 01 cân điện tử. Ngoài ra, cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn còn thu giữ của anh Trịnh Việt A 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Xét toàn bộ số tang vật trên là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cho tịch thu: Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy cho tịch thu tiêu hủy. Còn 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và 01 cân điện tử cho tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65 và Điều 56 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn D 42 (bốn mươi hai) tháng tù, về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt 30 (ba mươi) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 115/HSST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2020.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ơng Đức G 40 (bốn mươi) tháng tù, về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2021.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và 01 cân điện tử.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Phạm Văn D và cán bộ giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Tình trạng tang vật như biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm cho Nhà nước.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các bị cáo được quyền kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;