Bản án 45/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2021/TLST- HS ngày 31 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đinh Văn Ch(tên gọi khác: Không), sinh năm 1991 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn Th, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Đinh Văn Q (Đã chết) và bà Chu Thị D sinh năm 1956; Bị cáo có vợ là Trịnh Thị Gi sinh năm 1993 và có 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 30/12/2020, chuyển tạm giam ngày 04/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Văn Đ(tên gọi khác: Không), sinh năm 1987 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Phạm Văn Đ sinh năm 1961 và bà Đinh Thị Th sinh năm 1961; Có vợ là Trần Thị H sinh năm 1989 hiện đã ly hôn; Bị cáo có 03 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 30/12/2020, chuyển tạm giam ngày 04/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Chu Thị D, sinh năm 1956; Địa chỉ: Thôn Th, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Có mặt - Bà Đinh Thị Th, sinh năm 1961; Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.Có mặt

* Người làm chứng:

- Anh Bùi Đức V, sinh năm 1982. Vắng mặt - Anh Trịnh Văn Th sinh năm 1985. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Văn Ch là người nghiện ma túy, loại Heroine; Khoảng 10 giờ ngày 30/12/2020, Đinh Văn Ch điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sadoka, biển kiểm soát: 35N4-1461 từ nhà đi tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến gần nhà văn hóa Thôn Th, xã V, huyện N thì gặp bạn là Phạm Văn Đ cũng là người nghiện ma túy. Đinh Văn Ch đã đưa số tiền 500.000đồng và nói với Phạm Văn Đ đi mua ma túy về sử dụng chung thì Đ đồng ý và hẹn sau khi mua được ma túy thì gặp nhau tại đường liên thôn 2 Vân Trung, xã Thương Hòa, huyện N. Đinh Văn Ch điều khiển xe mô tô đi tìm mua bơm kim tiêm và nước cất để làm công cụ sử dụng ma túy còn Phạm Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius Fi, biển kiểm soát: 35B1-957.90 đi đến khu vực đường ở thôn Vân Trung, xã Thượng Hòa, huyện N thì gặp một người nam giới (Đảo không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở ven đường trông giống người nghiện ma túy. Phạm Văn Đ đi lại gần người nam giới và hỏi:“Anh ơi có đồ không, để cho em”, người nam giới hiểu ý của Đ nên hỏi: “Lấy bao nhiêu” thì Đ trả lời: “Để cho em năm trăm”. Phạm Văn Đ lấy số tiền 500.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho Đ 03 gói Heroine đều được gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ. Phạm Văn Đ mở ra kiểm tra bên trong xác định đúng là Heroine nên đã gói lại rồi cầm các gói Heroine vừa mua được trên tay điều khiển xe mô tô đi về khu vực đường hàng cây thuộc địa phận đường liên thôn 2 Vân Trung, xã Thượng Hòa, huyện N để gặp Đinh Văn Ch. Tại đây Ch và Đ dừng xe lại và ngồi tại lề đường, Phạm Văn Đ lấy ra 03 gói Heroine vừa mua được đưa cho Ch. Sau đó Đinh Văn Ch đã cầm 02 gói Heroine bỏ xuống mặt đường ngay vị trí đang ngồi còn lại 01 gói Heroine thì Ch và Đ cùng chia nhau sử dụng chung số ma túy trên bằng hình thức chích.

Hồi 11 giờ cùng ngày, khi Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ vừa sử dụng xong Heroine và đang ngồi tại lề đường liên thôn 2 Vân Chung, xã Thượng Hòa đã gặp Tổ công tác Công an xã Thượng Hòa, huyện N đang làm nhiệm vụ tuần tra đi đến phát hiện, bắt giữ. Tổ công tác đã lập biên bản và thu giữ của Đinh Văn Ch 02 gói nhỏ đều được gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong đều là chất bột dạng cục màu trắng; 01 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml, bên trong có chứa một ít dung dịch màu trắng; 03 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml chưa qua sử dụng; 01 lọ nước cất loại Novocain chưa qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sadoka, biển kiểm soát: 35N4-1461. Thu giữ của Phạm Văn Đ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius Fi, biển kiểm soát: 35B1-957.90. Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ đều khai nhận 02 gói nhỏ mà Tổ công tác thu giữ là 02 gói Heroine vừa mua về nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 02 gói nhỏ đều được gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ thu giữ của Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ có khối lượng: gói thứ nhất là 0,09gam ký hiệu M1, gói thứ hai là 0,08gam ký hiệu M2 và 01 bơm kim tiêm nhựa có chứa chất lỏng màu trắng để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 67/KLGĐ-PC09-MT ngày 04/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0796 gam; M2 có khối lượng 0,0789 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,1585 (không phẩy một nghìn năm trăm tám mươi lăm) gam.

- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gừi giám định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Heroine.

- Chất lỏng màu trắng bám dính bên trong bơm kim tiêm nhựa gửi giám định là dung dịch có chứa ma túy, loại Heroine. Lượng chất lỏng bám dính ít, không xác định được thể tích (không xác định được khối lượng Heroine).

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0370 gam, M2 có khối lượng 0,0320 gam đều là mua túy, loại Heroine, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 03ml, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 40/CT - VKSNQ ngày 31/3/2021 đã truy tố các bị cáo Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ phạm tội : Tàng trữ trái phép chất ma túy Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Văn Ch từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 30/12/2020.

Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 30/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy đối với: chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0370 gam, M2 có khối lượng 0,0320 gam đều là mua túy, loại Heroine, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ- PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 03ml, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ; 03 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml và 01 lọ nước cất loại Novocain (đều chưa qua sử dụng).

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của các bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Hồi 11 giờ ngày 30/12/2020 tại đường thôn 2 Vân Trung, xã Thượng Hòa, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tổ công tác Công an xã Thượng Hòa, huyện N phát hiện bắt quả tang Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ có hành vi cất giấu trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,1585 nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

………………………………………….

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, xét thấy:

Hành vi tàng trữ ma túy của các bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi mua bán ma túy của mình bị Nhà nước cấm. Các bị cáo nhận thức được tàng trữ, sử dụng ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa Đ, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm khắc như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như giúp các bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo. Xét trong vụ án bị cáo Đinh Văn Ch là người khởi xướng rủ rê bị cáo Đ thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy bị cáo Đinh Văn Ch phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo Phạm Văn Đ.

Trong vụ án này, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho Phạm Văn Đ nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo là người nghiện ma túy, việc mua bán ma túy nhằm mục đích thỏa mãn cơn nghiện cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với các bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Sadoka, biển kiểm soát: 35N4-1461 thu giữ của Đinh Văn Ch. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô đăng ký mang tên anh Đinh Văn Hướng có địa chỉ tại thôn Vân Trình, xã Thượng Hòa, huyện N do Đinh Văn Ch mượn của bà Chu Thị D (mẹ của Ch). Bà Dền khai đã mua lại chiếc xe mô tô trên của anh Hướng vào năm 2015 với giá 3.000.000đồng, khi mua thỏa thuận bằng miệng không viết giấy tờ mua bán. Cơ quan điều tra đã xác minh thông tin theo địa chỉ của anh Đinh Văn H kết quả Công an xã Thượng Hòa xác định hiện không có thông tin lưu trữ của anh Đinh Văn Hướng theo địa chỉ ghi trong đăng ký xe mô tô. Cơ quan điều tra đã có Công văn đề nghị Văn Phòng Cơ quan điều tra, Công an tỉnh Ninh Bình xác minh tra cứu vật chứng đối với chiếc xe mô tô trên, kết quả cho thấy chiếc xe mô tô trên không phải là vật chứng của vụ án nào. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tách chiếc xe mô tô thu giữ của Đinh Văn Ch ra để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius Fi, biển kiểm soát: 35B1- 957.90 thu giữ của Phạm Văn Đ. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của bà Đinh Thị Th (mẹ của Đ) không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho bà Đinh Thị Th là phù hợp.

Đối với chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0370 gam, M2 có khối lượng 0,0320 gam đều là mua túy, loại Heroine, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 03ml, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ; 03 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml và 01 lọ nước cất loại Novocain (đều chưa qua sử dụng), là loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn Ch 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/12/2020.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

*Tịch thu tiêu hủy: chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0370 gam, M2 có khối lượng 0,0320 gam đều là mua túy, loại Heroine, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ- PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 03ml, cùng vỏ bao gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 67/KLGĐ-PC09-MT cùng thông tin về vụ việc và vật chứng; 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ; 03 bơm kim tiêm nhựa màu trắng loại 3ml và 01 lọ nước cất loại Novocain (đều chưa qua sử dụng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Đinh Văn Ch, Phạm Văn Đ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm

4. Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo; Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;