Bản án 45/2021/HS-ST ngày 07/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 07/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2021/HSST ngày 23 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Giáp Hùng D, sinh ngày 30/5/1990 tại tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: số nhà x, đường T, tổ y, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Giáp Văn S và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: có 02 tiền án:

Bản án số 55/HSST ngày 11/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2019, án phí và hình phạt bổ sung thi hành xong tháng 6/2017.

Bản án số 111/HSST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/3/2020, án phí đã nộp tháng 9/2019.

Tiền sự: 01 tiền sự, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01842 ngày 29/7/2020 của Công an thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang xử phạt 750.000 đồng đối với Giáp Hùng D về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Giáp Hùng D đã chấp hành xong quyết định trên vào tháng 8/2020.

Bị tạm giữ từ ngày 01/12/2020 đến ngày 04/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Minh D, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Số nhà z, ngõ q, đường T, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Số nhà v, đường L, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Đỗ Viết Đ, sinh năm 1977; Trú tại: Tổ f, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1954; Nơi cư trú: Số nhà g, ngõ y, đường T, tổ f, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 01/12/2020, tại khu vực ngõ 235, đường Trần Lãm, tổ 11, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang Giáp Hùng D đang bán trái phép chất ma túy cho Trần Minh D. Đi cùng với D còn có Dương Ngọc H. Trước sự chứng kiến của ông Đỗ Viết Đ, sinh năm 1977, trú tại tổ 11, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành kiểm tra người Trần Minh D thu tại túi áo bên phải phía trước của Trần Minh D đang mặc 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa chất tinh thể trong suốt, Trần Minh D khai nhận là ma túy đá vừa mua của Giáp Hùng D với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân (niêm phong ký hiệu M). Kiểm tra người Giáp Hùng D phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay phải của Giáp Hùng D 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng có số sê ri UW19926795 và một tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng có số sêri JU 18437376, Giáp Hùng D khai nhận là số tiền vừa bán ma túy cho Trần Minh D mà có; tiến hành kiểm tra Dương Ngọc H và chiếc xe máy của H không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy, H khai là xe ôm được Trần Minh D thuê chở và không biết mục đích D đi mua ma túy. Sau đó tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Giáp Hùng D thu trên mặt bàn máy tính trong phòng ngủ tầng 2 có 01 cân điện tử vỏ màu đen, đã cũ.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai nhận như trên. Lời khai của người làm chứng là anh Dương Ngọc H, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Minh D, lời khai của những người chứng kiến là ông Đỗ Viết Đ và ông Nguyễn Ngọc H đều thể hiện như lời khai của bị cáo.

Bản kết luận giám định số 420/KLGĐMT - PC09 ngày 02/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0227gam (không phẩy không nghìn hai trăm hai mươi bảy gam).

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKSTPTB ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Giáp Hùng D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm q khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù. Đề nghị phạt bị cáo từ 5 triệu đến 7 triệu đồng để sung ngân sách Nhà nước. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa mẫu vật gửi giám định, toàn bộ bao gói được niên phong trong phong bì số 420/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 cân điện tử. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng : Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét khẩn cấp; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập; Bản kết luận giám định số 420/KLGĐMT-PC09 ngày 02/12/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 01/12/2020, tại khu vực ngõ 235, đường Trần Lãm, tổ 11, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Giáp Hùng D có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0227 gam với giá 300.000 đồng cho Trần Minh D. Bị cáo Giáp Hùng D là người đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm. Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

…q) Tái phạm nguy hiểm…

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng không chịu rèn luyện bản thân vẫn thực hiện với lỗi cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo bán ma túy với mục đích kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,0093 gam mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Trần Minh D. Số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước; 01 cân điện tử vỏ màu đen không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:

[6.1] Đối với anh Trần Minh D là người mua mua túy của Giáp Hùng D: Xét thấy, Trần Minh D chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và chưa có tiền án về các tội quy định tại các Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252. Trần Minh D tàng trữ 01 gói ma túy, Methamphetamine, có khối lượng 0,0227 gam nên Trần Minh D không phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định xử phạt hành chính số 59 ngày 04/12/2020 đối với Trần Minh D với hình thức cảnh cáo là đúng quy định của pháp luật.

[6.2] Đối với người bán ma túy: Bị cáo khai mua của một người phụ nữ tại khu vực cầu C, phường Q, thành phố T nhưng không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

[6.3] Đối với anh Dương Ngọc H là người làm nghề xe ôm được D thuê chở, anh H không biết việc D đi mua ma túy, nên không xử lý đối với anh Dương Ngọc H là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Úy ban Thường vụ Quốc hội.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Giáp Hùng D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giáp Hùng D 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.

[3]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,0093 gam mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Trần Minh D được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 420/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình; 01 cân điện tử đã thu của Giáp Hùng D.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã thu của Giáp Hùng D.

(Vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Thái bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 23/3/2021).

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/4/2021. Anh Trần Minh D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 07/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;