Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 456/2020/TLST-HNGĐ ngày 06/10/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 25/3/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1979 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp V, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Anh Nguyễn V, sinh năm 1970 (vắng mặt) .

Địa chỉ: ấp V, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 30/9/2020, trong quá trình làm việc, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày: Vào năm 1997, chị và anh V tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hiệp, huyện Xuân Lộc. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh Vinh ham chơi, bài bạc dẫn đến nợ nần, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Anh chị không còn sống chung với nhau từ tháng 2019 cho đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh V, do đó yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Thúy V1, sinh ngày 04/5/1999; Nguyễn Thanh T, sinh ngày 29/10/2005 và Nguyễn Hoài Ng, sinh ngày 05/10/2014. Hiện nay các cháu đang sống cùng với chị Th. Do cháu V1 bị bại não, không có khả năng lao động nên khi ly hôn, chị yêu cầu nuôi 03 con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Trong quá trình làm việc bị đơn anh Nguyễn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vì vậy không có lời trình bày.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định pháp luật về tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th, chị Th được ly hôn với anh V; Về con chung: giao 03 con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết; tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị Th có đơn khởi kiện ly hôn với anh Nguyễn V, do đó xác định chị Th là nguyên đơn, anh V là bị đơn theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn V đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, tiến hành xét xử vắng mặt chị Th, anh V là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn V tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau năm 1997 tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hiệp, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Chị Th cho rằng, nguyên nhân mâu Thủyẫn của vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh V thường xuyên bài bạc dẫn đến nợ nần, không có trách nhiệm với vợ con. Anh Vinh đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, cũng như hòa giải, anh V biết việc ly hôn nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh V không có thiện chí trong việc hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Hơn nữa, theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của anh chị tại địa phương cho thấy anh V có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, tuy nhiên anh chị không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Từ khi anh V, chị Th không sống chung với nhau cho đến nay thì chị Th là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, việc nuôi con chung của chị Th là đảm bảo. Mặt khác, cháu Nguyễn Thanh T có nguyện vọng được sống với mẹ, cháu V1 bị bệnh bại não, không tự chăm sóc được bản thân, cháu Ng còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Anh Vinh vắng mặt nên không có lời trình bày về nguyện vọng nuôi con. Vì vậy, cần thiết giao 03 con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình và nguyện vọng của con chung.

[6] Chị Th không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên không xét, anh V vắng mặt nên không có lời trình bày, nên không giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Chị Th trình bày không có, anh V không có lời khai, nên không xem xét giải quyết.

[8] Về nợ chung: Chị Th trình bày không có, anh V không có lời khai, nên không giải quyết.

[9] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 5, 6,7, 8 của Luật Hôn và nhân gia đình năm 1986; Điều 131, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th ly hôn anh Nguyễn V.

2. Về con chung: Giao 03 cháu Nguyễn Thị Thúy V1, sinh ngày 04/5/1999; Nguyễn Thanh T, sinh ngày 29/10/2005 và Nguyễn Hoài Ng, sinh ngày 05/10/2014 cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai Thủy số 0004116 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành án phí.

Chị Nguyễn Thị Th, anh Nguyễn V được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

412
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;