Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 06/05/2021 về ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 79/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐST - HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2021/QĐST - HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị H, sinh năm 1998;

Trú tại: Số 399/AĐ1, ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Anh T, sinh năm 1993;

Trú tại: Ấp A, xã An, huyện B, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/02/2021, trong quá trình tố tụng chị H trình bày:

Chị và anh T tự nguyện cưới nhau vào năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An vào ngày 11/8/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong chuyện tiền bạc và kinh tế gia đình nên cả hai đã ly thân từ tháng 6/2019 cho đến nay. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung Ph, sinh ngày 01/4/2016 hiện đang sống với anh T. Sau khi ly hôn, chị muốn để anh T tiếp tục nuôi con chung và chị không cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Trong quá trình tố tụng, anh T không viết bản tự khai trình bày ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị H, không đến Tòa án tham gia tố tụng vụ án và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri:

- Về thủ tục: Xét thấy trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký đã tuân thủ và tiến hành đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng, có tiền hành xác minh trình trạng hôn nhân của các đương sự. Tại phiên tòa, thành viên HĐXX thể hiện sự vô tư, khách quan, độc lập khi xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm túc Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự và có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, đều đó cho thấy bị đơn chưa chấp hành đúng nghĩa vụ có mặt như quy dịnh tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án được đưa ra xét xử là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận cho chị H ly hôn với anh T. Về con chung: Giao cháu Ph cho anh T nuôi dưỡng, riêng việc cấp dưỡng nuôi con được giải quyết khi anh T có yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về hoân nhaân: Chị H và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã An theo quy định pháp luật vào ngày 11/8/2016. Do đó, hôn nhân của chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị H cho rằng vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn và tình cảm vợ chồng nên yêu cầu ly hôn với anh T. HĐXX xét thấy: Anh T đã biết được việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của chị H nhưng anh T không đến Tòa án tham gia tố tụng và có văn bản thể hiện ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của chị H đều đó cho thấy anh T không có thiện chí mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, tại biên bản làm việc với bà Ư là mẹ ruột của anh T, bà Ước cho rằng: chị H và anh T có mâu thuẫn tình cảm vợ chồng và chị H đã bỏ nhà đi từ tháng 6/2020 cho đến nay, gia đình hai bên có tạo điều kiện hàn gắn nhưng không thành và anh T đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị H. Vì vậy, HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở và phù hợp với quy định khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung Ph, sinh ngày 01/4/2016 hiện đang sống với anh T. Chị H đồng ý để cho anh T tiếp tục nuôi con và chị không cấp dưỡng nuôi con. HĐXX nhận thấy: yêu cầu của chị H là hoàn toàn tự nguyện và cháu Ph hiện tại sinh sống với anh T nên để đảm bảo cuộc sống bình thường cho cháu Ph nên việc anh T tiếp tục được nuôi cháu Ph là phù hợp với quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung, để đảm bảo cuộc sống của con chung sau này thì anh T có quyền yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi chung bằng vụ kiện khác. Vì vậy, yêu cầu của chị H để anh T tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ph và chị không cấp dưỡng nuôi con chung là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri phù hợp với các nhận định nêu trên nên được HĐXX chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H phải nộp theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận cho chị H ly hôn với anh T.

2. Về con chung: Anh T được nuôi cháu Ph (sinh ngày 01/4/2016) và chị H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị H phải nộp án phí hôn nhân và gia đình là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào theo biên lai thu tiền số 0006625 ngày 19/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày bản án được tống đạt theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 06/05/2021 về ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;