Bản án 45/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 45/2020/HSST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Q., tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/HSST ngày 12 tháng 5 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo :

Nguyễn Hùng L., sinh năm 1998 tại tỉnh B.; Nơi cư trú: Thôn N., xã P., huyện T., tỉnh B.; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình L. sinh năm 1974 và bà Hoàng Thị V. sinh năm 1974; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/01/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Q., có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 10/2019, Nguyễn Hùng L. đi làm thuê tại huyện, tỉnh Q.có quen biết được người nam tên K. khoảng 22 tuổi, là người làm chung. Trong khoảng thời gian quen biết nhau L. và K. đã từng sử dụng trái phép chất ma túy chung với nhau vài lần tại một số quán karaoke trên địa bàn huyện Đ., tỉnh Q. Làm được một thời gian thì L. nghỉ về quê tại xã P. , huyện T., tỉnh B. sinh sống. Đến chiều ngày 29/01/2020, L. đến thành phố Q., tình cờ gặp lại K. tại đường D. TP. Q.. Sau đó, K. rủ L. đi hát karaoke ở quán DRAGON trên đường L., TP. Q. Khoảng 19 giờ cùng ngày, L. và K. đi đến quán karaoke DRAGON số 07 đường L., thành phố Q.. Sau đó có 02 người nam là bạn của K. đến quán Karaoke cùng uống bia và hát karaoke với K.và L.. Ngồi chơi được một lúc, L. thấy trên bàn trong phòng có 03 viên ma túy “thuốc lắ” màu hồng không rõ là của ai và không biết ai đã để đó. K. bẻ các viên thuốc lắc ra làm đôi rồi đưa cho L. một phần sử dụng rồi tiếp tục ngồi chơi. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, thấy K. cùng hai người bạn của K. nằm trên ghế không sử dụng ma túy nữa nên trước khi về L. lấy 01 viên thuốc lắc màu hồng đã được bẻ làm đôi trong gói nilon cất trong ví da màu nâu của L. và ra về. L. luôn cất giữ viên “thuốc lắc” trên trong người để sử dụng, vì bỏ trong ví để trong túi quần nên viên “thuốc lắc” đã bị nghiền thành vụn nhỏ.

Đến khoảng 06 giờ 30 phút ngày 31/01/2020, khi L. đi đến đoạn đường T. thuộc tổ 1, khu phố 1, phường T., thành phố Q. thì bị tổ công tác Công an thành phố Q. dừng xe kiểm tra phát hiện L. đang tàng trữ trong ví da màu nâu 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu hồng nghi là ma túy. L. đã khai nhận đó là ma túy “thuốc lắc” của L. tàng trữ nhằm mục đích sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện thu giữ. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hùng L. và thu giữ, niêm phong toàn bộ số chất nghi là ma túy trên.

Theo Kết luận giám định số 32/PC09 ngày 31/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. kết luận: chất bột màu hồng đựng bên trong 01 gói nilon hàn kín ghi thu của Nguyễn Hùng L. (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3309 gam là MDMA. MDMA nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có số thứ tự 27, danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 gói nilon được hàn kín bên trong có chứa chất bột màu hồng là ma túy loại MDMA, có khối lượng là 0,3309 gam, 01 ví da màu nâu của Nguyễn Hùng L..

Bản Cáo trạng số 57/CT - VKSQN ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Q. truy tố Nguyễn Hùng L. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Hùng L. có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi cất giữ 0,3309 gam MDMA để sử dụng nên Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu, tiêu hủy chiếc ví da và số ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo không tự bào chữa Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Tòa giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Hùng L. có đầy đủ sức khỏe và trình độ học vấn, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo sử dụng ma túy nên biết rất rõ việc sử dụng ma túy lâu dài sẽ gây nghiện, gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm nên việc cất giữ, mua bán, sử dụng các chất ma túy phải theo quy định đặc biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng khi đi hát Karaoke cùng bạn bè, được bạn cho sử dụng ma túy, nhìn thấy số ma túy còn lại trên bàn, bị cáo đã lấy bỏ vào ví da, cất trong túi quần để dành sử dụng. Sáng ngày 31/01/2020, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giữ số ma túy này trong túi quần. Theo Kết luận giám định số 32/PC09 ngày 31/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. thì chất bột màu hồng đựng bên trong 01 gói nilon hàn kín ghi thu của Nguyễn Hùng L. (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3309 gam là MDMA. MDMA nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có số thứ tự 27, danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo, răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này trong xã hội.

Tuy nhiên, tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, số ma túy tàng trữ không nhiều nên xử bị cáo với mức án có lý, có tình, thấp hơn mức Kiểm sát viên đề nghị để bị cáo an tâm cải tạo sớm tái hòa nhập với cộng đồng.

[4] Bị cáo L. khai số ma túy bị thu giữ bị cáo lấy trong khi ngồi hát cùng với bạn tên K. và 02 người nam là bạn của K. nhưng không biết gì về nhân thân của những người này, cơ quan điều tra chưa điều tra được nên chưa có căn cứ để xem xét hành vi của họ trong vụ án này, sau này điều tra, làm rõ sẽ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

Chiếc ví da bị cáo sử dụng cất giữ ma túy, số ma túy đang thu giữ còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án không có giá trị kinh tế nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí:

Bị cáo bị kết án về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Hùng L. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng L. 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 31/01/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 0,2153 gam mẫu A còn lại sau giám định (Toàn bộ mẫu hoàn lại đựng trong một bì thư dán kín niêm phong 03 dấu tròn “Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định”) và 01 ví da màu nâu theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/5/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự TP. Q..

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;