Bản án 45/2020/HS-ST ngày 16/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 16/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2020/TLST-HS, ngày 17 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. ĐINH CÔNG D, sinh năm: 1988; Giới tính: nam; Nơi sinh: tại Cà Mau. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: A24 T82, khu vực A, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; Chỗ ở hiện nay: 233/59B đường Ng, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh bất động sản (Môi giới bất động sản); Quan hệ gia đình: Cha tên: Đinh V (chết); Mẹ tên: Nguyễn K (sống); Anh, chị, em ruột: 01 người sinh năm 1989; Vợ tên: Nguyễn Hoàng D; Con: (Tại phiên tòa bổ sung con có 01 người, sinh ngày: 09/02/2020);

Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/11/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Ch- Thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Cần Thơ.

2. NGUYỄN HỮU QUẢN T, sinh năm: 1992; Giới tính: nam, Nơi sinh: tại Cần Thơ. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 529A, tổ 9, khu vực X, phường Y, quận R, thành phố Cần Thơ; Chỗ ở: như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh bất động sản (Môi giới bất động sản); Quan hệ gia đình; Cha tên: Nguyễn Hữu Q (chết); Mẹ tên: Nguyễn Th (sống); Anh, chị, em ruột có 01 người sinh năm 1990; Bản thân chưa vợ, con;

Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/11/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Ch- Thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Cần Thơ.

3. LÊ THỊ BÉ TR, sinh năm: 1998; Giới tính: nữ; Nơi sinh: tại Sóc Trăng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã P1, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên Spa; Quan hệ gia đình; Cha tên: Lê Th1 (sống); Mẹ tên: Đặng Thị Q (sống); Anh ruột: Có 01 người sinh năm 1993; Bản thân chưa chồng, con;

Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/11/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

4. TRẦN THỊ HỒNG NH, sinh năm: 1995; Giới tính: nữ; Nơi sinh: tại An Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 393/13 ấp H, xã P, huyện S, tỉnh An Giang; Chỗ ở: như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quan hệ gia đình; Cha tên: Trần Văn Dũng (sống); Mẹ tên: Bạch Hồng Gh (sống); Anh, chị, em ruột: Có 03 người (Lớn nhất sinh năm: 1998, nhỏ nhất sinh năm: 2006); Chồng tên: Trần Thanh Gi (Ly thân); Con: 01 (sinh năm: 2014);

Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/11/2019 và đang bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/11/2019, sau khi nhận được tin báo của người dân, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Ninh Kiều kết hợp với Công an phường Cái Khế, quận Ninh Kiều kiểm tra hành chính tại phòng số 503 khách sạn Hà Ph, địa chỉ số 120/10B Trần P, phường K, quận Ninh Kiều; khi kiểm tra phát hiện Đinh Công D, Nguyễn Hữu Quản T, Lê Thị Bé Tr, Trần Thị Hồng Nh đang sử dụng ma túy trái phép, nên lực lượng chức năng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- 03 viên nén hình tròn màu xanh thu giữ dưới sàn nhà dưới bàn trong phòng 503 khách sạn Hà Ph; 01 viên nén hình chữ nhật màu cam; 1,5 viên nén hình tròn màu xanh (thu giữ trong túi màu đen của T);

- 01 dĩa tròn bằng sứ màu trắng; 01 bình Shisha; 01 đèn chớp; 01 thẻ nhựa;

01 tờ tiền quấn tròn, mệnh giá 10.000 đồng; 01 điện thoại Iphone X màu đen đã qua sử dụng; 01 túi xách đeo bằng da màu đen; 01 loa mini;

- 01 gói nilon nẹp miệng chứa chất bột màu trắng (thu giữ trong xe ô tô biển số 95A-037.49 của T, T khai là thuốc chữa viêm xoang). Bút lục: 03; 57, 58.

Tại Kết luận giám định số: 675/KL - PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận:

Gói 1:

- 01 viên nén hình chữ nhật màu cam (ký hiệu M1a) gửi giám định là ma túy, khối lượng 0, 3512 gam, loại MDMA

- 01 viên nén tròn màu xanh (ký hiệu M1b) gửi giám định là ma túy, khối lượng 0, 3470 gam, loại MDMA

- 01 viên nén màu xanh bị vỡ mất một phần (ký hiệu M1c) trong bọc nylon gửi giám định là ma túy, khối lượng: 0,1921 gam, loại MA; MDMA và Methylphenidate.

Gói 2: Chất bột màu trắng (ký hiệu M2) trong bọc nilon gửi giám định không tìm thấy thành phần chất ma túy và tiền chất thường gặp, khối lượng: 0,6508 gam.

Tại Kết luận giám định số: 677/KL-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: 03 viên nén tròn màu xanh trong bọc nilon gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,0467 gam, loại MDMA (bút lục: 64).

Quá trình điều tra, các bị cáo D, T, Tr, Nh khai nhận: sau khi dự tiệc sinh nhật của D, D rủ T, Nh tìm nơi cùng sử dụng ma túy, các bị cáo T, Nh đồng ý. D đưa cho T 01 gói nilon, bên trong có chứa ma túy dạng thuốc lắc, số ma túy này D mua của một người không rõ họ tên ở quán Karaoke Boss, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều. T đặt phòng số 503 khách sạn Hà Ph, địa chỉ 120/10B Trần Phú, phường Cái Khế để cả nhóm cùng đến sử dụng ma túy; T và Nh đến khách sạn trước; sau khi liên hệ với đối tượng tên M mua thêm ma túy dạng khay để sử dụng, T đi đón Tr đến phòng 503 để cùng sử dụng ma túy. Khi các bị cáo D, T, Nh, Tr đến phòng 503 thì T lấy gói nilon chứa ma túy để lên bàn để sử dụng, khi các bị cáo T, D, Nh và Tr đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ cùng số ma túy còn lại chưa sử dụng.

Đối với chất bột màu trắng thu giữ trong xe ô tô biển số 95A- 037.49 của bị cáo T, theo Kết luận giám định số: 675/KL-PC09 ngày19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ: không tìm thấy thành phần chất ma túy và tiền chất thường gặp, khối lượng: 0,6508 gam. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều không đề cập xử lý.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo D và T do chưa xác định rõ họ tên, địa chỉ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Ninh Kiều tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSNK ngày 15 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố các bị cáo Đinh Công D; Nguyễn Hữu Quản T; Lê Thị Bé Tr; Trần Thị Hồng Nh về tội: ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy’ theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo, có phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt; Các bị cáo phạm tội thuộc đồng phạm giản đơn; bị cáo D và T có vai trò ngang nhau là rủ các bị cáo khác sử dụng ma túy nên có mức án cao hơn các bị cáo Tr và Nh từ đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Đinh Công D; Nguyễn Hữu Quản T; Lê Thị Bé Tr; Trần Thị Hồng Nh phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng:

Áp dụng đối với bị cáo Đinh Công D: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù;

Áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Hữu Quản T: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù;

Áp dụng đối với bị cáo Lê Thị Bé Tr: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Tr mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù;

Áp dụng đối với bị cáo Trần Thị Hồng Nh: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Nh mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù;

- Về xử lý tang vật, vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự xử lý theo quy định.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật có liên quan đến các chất ma túy, vật để sử dụng ma túy.

Đề nghị tịch thu sung công: Tịch thu 10.000 đồng (mười nghìn đồng); 01 (một) Loa mini (đã qua sử dụng);

Trả lại bị cáo T 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, màu đen (đã qua sử dụng).

Tch thu tiêu hủy: 01 túi xách đeo bằng da màu đen; 01 dĩa tròn bằng sứ màu trắng; 01 bình Shisha; 01 đèn chớp; 01 thẻ nhựa (đã qua sử dụng);

Ngưi bào chữa cho bị cáo Đinh Công D và Nguyễn Hữu Quản T có Luật sư Trung trình bày lời bào chữa:

Về hành vi phạm tội, tội danh và điều luật truy tố bị cáo D và T là phù hợp với quy định; thống nhất Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố; Về tình tiết giảm nhẹ bị cáo thành khẩn khai báo nên thống nhất Điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên đề nghị xem xét bổ sung cho hai bị cáo được hưởng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo D mới có con nhỏ, bị cáo T có mẹ neo đơn nên xin cho hai bị cáo mức án thấp nhất khung hình phạt.

Hai bị cáo D và T thống nhất lời bào chữa của Luật sư, không có ý kiến bổ sung.

Bị cáo Tr và Nh không có ý kiến tranh luận, thống nhất với Cáo Trạng đã truy tố.

Đối đáp của đại diện Viện kiểm sát: Đối với yêu cầu của người bào chữa xin giảm nhẹ cho hai bị cáo đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên ý kiến. Do bị cáo phạm tội nghiêm trọng khi đề nghị Viện kiểm sát đã cân nhắc. Không thống nhất áp dụng cho hai bị cáo D và T khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Các bị cáo đã thừa nhận hành vi sau khi dự tiệc sinh nhật của D, D rủ T, Nh tìm nơi cùng sử dụng ma túy, các bị cáo T, Nh đồng ý. D đưa cho T 01 gói nilon, bên trong có chứa ma túy dạng thuốc lắc ma túy đá (Methamphetamine), số ma túy này D mua của một người không rõ họ tên ở quán Karaoke Boss, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều. T đặt phòng số 503 khách sạn Hà Ph, địa chỉ 120/10B Trần P, phường K để cả nhóm cùng đến sử dụng ma túy; T và Nh đến khách sạn trước; sau khi liên hệ với đối tượng tên M mua thêm ma túy dạng khay để sử dụng, T đi đón Tr đến phòng 503 để cùng sử dụng ma túy. Khi các bị cáo D, T, Nh, Tr đến phòng 503 thì T lấy gói nilon chứa ma túy để lên bàn để sử dụng, khi các bị cáo T, D, Nh và Tr đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ cùng số ma túy còn lại chưa sử dụng (bút lục: 88-91; 102-109; 123 -126; 139-144). Mục đích của các bị cáo cùng để sử dụng, thể hiện ngày 11/11/2019 qua khám xét thu giữ số ma túy của các bị cáo là loại Methamphetamine có khối lượng theo Kết luận giám định số: 675/KL - PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: là 0,8903 gram (gam); Kết luận giám định số: 677/KL-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: 03 viên nén tròn màu xanh trong bọc nilon gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,0467 gam, loại MDMA, tổng trọng lượng ma túy tang vật thu giữ là 1,937 gam đây là số ma túy các bị cáo vừa mua và rủ lên phòng 503 để sử dụng thì bị bắt. Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, Hội đồng xét xử khẳng định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Về hành vi: Nhà nước thống nhất quản lý các chất ma tuý nhằm đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma tuý. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình, nên hành vi của các bị cáo là cố ý và hành vi này đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, các bị cáo là người đã trưởng thành, trong độ tuổi lao động không lo chí thú làm ăn mà lại lựa chọn việc sử dụng ma túy hủy hoại bản thân, hành vi của các bị cáo đã làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự công cộng tại địa phương. Bản thân các bị cáo nhận biết hành vi của mình là trái pháp luật, ảnh hưởng xấu đến gia đình và xã hội, tác hại của ma tuý đối với xã hội là rất lớn, sử dụng ma tuý đã đưa vào xã hội nhiều căn bệnh hiểm nghèo, nhiều tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản… và làm nhiều gia đình khốn đốn ảnh hưởng to lớn đến sức khoẻ cộng đồng dân cư nhưng các bị cáo vẫn cố ý mua ma túy (Methamphetamine) hẹn nhau đến khách sạn để cùng sử dụng nên các bị cáo đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Để có tính răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội nên cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để các bị cáo có thời gian suy nghĩ tác hại của ma tuý mà làm lại cuộc đời, có thời gian để cai nghiện và để phòng ngừa chung các hành vi tương tự trong xã hội.

[4] Về tính chất tội phạm: Các bị cáo cùng nhau mua ma túy, với mục đích về cùng nhau để sử dụng. Tuy nhiên, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ với nhau, không có sự phân công rõ ràng, không có người chủ mưu… Nên Hội đồng xét xử xem đây là đồng phạm giản đơn và việc phạm tội của các bị cáo phải gánh chịu hậu quả pháp lý ngang nhau. Tuy nhiên, đối với bị cáo D và T là người rủ ghê các bị cáo khác. Do đó, bị cáo D và T phải chịu hậu quả pháp lý cao hơn các bị cáo khác thể hiện sự công bằng của pháp luật.

[5] Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Tr gia đình thuộc diện có công với cách mạng (Bà nội được tặng, thưởng huân chương kháng chiến) nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về các tình tiết tăng nặng: Không;

[7] Về xử lý tang vật, vật chứng:

Tch thu sung quỹ nhà nước: Tịch thu 10.000 đồng (mười nghìn đồng); 01 (một) loa mini (đã qua sử dụng) tại phiên tòa và quá trình điều tra đã chứng minh tờ tiền là công cụ để các bị cáo phạm tội; loa mini các bị cáo khai không rõ nguồn gốc của ai nên tịch thu sung quỹ nhà nước là phù hợp.

Tch thu tiêu hủy các gói niêm phong theo Kết luận giám định số: 675/KL - PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ là 0,8903 gram (gam) (Tiêu hủy trọng lượng còn lại sau giám định M1a: 0,2575 gam; M1b: 0,1840 gam; M1c: 0,1072 gam và M2: 0,5332 gam; là ma túy loại MA; MDMA và Methyphennidate); Kết luận giám định số: 677/KL-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: 03 viên nén tròn màu xanh trong bọc nilon gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,0467 gam, loại MDMA (Tiêu hủy trọng lượng còn lại sau giám định là 0,8517 gam);

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) dĩa tròn bằng sứ màu trắng; 01 (một) bình shisha; 01 (một) thẻ nhựa Yame.vn; 01 (một) đèn chớp; 01 (một) túi xách đeo bằng da màu đen, hiệu Hugo Boss (đã qua sử dụng khó bảo quản);

Trả lại cho bị cáo T 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu di động hiệu Iphone X, màu đen (Imei 359412084937089) (đã qua sử dụng);

(Tang vật xử lý: Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/01/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều và Quyết định chuyển vật chứng số 22/QĐ-VKSNK ngày 15/01/2020).

[8] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9] Xét thấy lời trình bày của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận;

[10] Xét thấy lời trình bày của Luật sư bào chữa cho hai bị cáo tại phiên tòa về tình tiết giảm nhẹ là phù hợp một phần với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận một phần; không chấp nhận áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

[11] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[12] Đối với người bán ma túy cho bị cáo D (Không rõ họ tên và địa chỉ) Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố các bị cáo Đinh Công D; Nguyễn Hữu Quản T; Lê Thị Bé Tr; Trần Thị Hồng Nh phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Đinh Công D, Xử phạt: Đinh Công D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 12/11/2019.

- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Hữu Quản T, Xử phạt: Nguyễn Hữu Quản T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 12/11/2019.

- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Lê Thị Bé Tr, Xử phạt: Lê Thị Bé Tr 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 12/11/2019.

- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng đối với bị cáo Trần Thị Hồng Nh, Xử phạt: Trần Thị Hồng Nh 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 12/11/2019.

* Về xử lý tang vật, vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tch thu sung công:

Tch thu sung công 10.000 đồng (mười nghìn đồng) (Theo biên lai thu số 007914, ngày 15/01/2020); tịch thu sung công 01 (một) loa mini, màu đỏ đen (đã qua sử dụng).

Tch thu tiêu hủy các gói niêm phong theo Kết luận giám định số: 675/KL - PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ là 0,8903 gram (gam) (Tiêu hủy trọng lượng còn lại sau giám định M1a: 0,2575 gam; M1b: 0,1840 gam; M1c: 0,1072 gam và M2: 0,5332 gam; là ma túy loại MA; MDMA và Methyphennidate); Kết luận giám định số: 677/KL-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: 03 viên nén tròn màu xanh trong bọc nilon gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,0467 gam, loại MDMA (Tiêu hủy trọng lượng còn lại sau giám định là 0,8517 gam);

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) dĩa tròn bằng sứ màu trắng; 01 (một) bình shisha; 01 (một) thẻ nhựa Yame.vn; 01 (một) đèn chớp; 01 (một) túi xách đeo bằng da màu đen, hiệu Hugo Boss (đã qua sử dụng khó bảo quản) khi án có hiệu lực pháp luật;

Trả lại cho bị cáo T 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, màu đen (Imei 359412084937089) (đã qua sử dụng) khi án có hiệu lực pháp luật;

(Tang vật xử lý: Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/01/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều và Quyết định chuyển vật chứng số 22/QĐ-VKSNK ngày 15/01/2020).

* Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (16/4/2020) các bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 16/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;