Bản án 45/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2020/TLST-HS ngày 01/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HS ngày 04/5/2020 đối với bị cáo:

Lường Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1972 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã M, huyên Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn T, sinh năm 1937 và bà Lương Thị D (đã chết); có vợ là Quàng Thị X, sinh năm 1973 và có 03 con lớn nhất 30 tuổi nhỏ nhất 24 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2019 cho đến nay, có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo: Anh Lò Văn I; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 10 phút, ngày 20/12/2019, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 05, thị trấn T, huyện Thuận Châu phát hiện, bắt quả tang Lường Văn N có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa một ít chất bột cục màu trắng (N khai là Heroine)- Nổ cất giữ trong túi áo đằng trước bên trái đang mặc trên người.

Hồi 16 giờ ngày 20/12/2019 tại phòng PC 09 Công an tỉnh Sơn La, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định, kết quả xác định số chất bột cục màu trắng gói trong nilon màu hồng có khối lượng 0,19 gam (không phẩy mười chín gam). Trích toàn bộ 0,19 gam chất bột trắng trên để giám định ký hiệu N1 làm mẫu gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 106 ngày 25/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng còn lại sau giám định thuộc mẫu giám định ký hiệu N1, khối lượng là 0,10 gam”.

Quá trình điều tra bị cáo Lường Văn N khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 20/12/2019, N đi bộ từ phòng trọ ở tiểu khu 05, thị trấn T ra khu vực gần rừng ma bản P, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến gần rừng ma, N gặp một người đàn ông dân tộc Thái trông giống người nghiện đang đứng ở ven đường, N hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine gói bằng nilon màu hồng với giá 100.000 đồng. N cất gói ma túy vừa mua được vào túi áo đằng trước bên trái đang mặc rồi đi về phòng trọ. Khi N đi đến tiểu khu 05, thị trấn T thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu dừng lại để kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra, Tổ công tác Công an huyên Thuận Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 45/CT-VKSTC ngày 30/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố Lường Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, Lường Văn Nổ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố Lường Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lường Văn N từ 18 đến 22 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,10 gam chất ma túy, loại chất Heroine + 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì đa bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu.

Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Lường Văn N thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 20/12/2019 Lường Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,19 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tiểu khu 05, thị trấn T, huyện Thuận Châu. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 20/12/2019; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại ngày 20/12/2019; Kết luận giám định số 106 ngày 25/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

[2] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,19 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng của Lường Văn N đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có bố là người có công với cách mạng là thương binh do vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Lường Văn N khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái gặp ở khu vực bản P, xã C, huyện Thuận Châu vào ngày 20/12/2019. Quá trình điều tra xác định Nổ không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông đã bán ma túy cho N. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng là 0,10 gam chất ma túy, loại chất Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu, là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lường Văn N phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố Lường Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lường Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20/12/2019).

Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ Một phong bì thư có viền màu xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20/12/2019, bao gồm: 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu.

+ Một phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La được dán giấy niêm phong của công an tỉnh Sơn La có số 00018, mặt trước ghi: “Mẫu còn lại giám định thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu N1, có khối lượng 0,10 gam của vụ Lường Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/12/2019 tại thị trấn Thuận Châu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La”.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/4/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lường Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;