Bản án 45/2020/HSST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 45/2020/HSST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2020/HSST ngày 14/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST-HS ngày 26/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn S (Không có tên gọi khác), sinh ngày 14/7/1980.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Xóm BP, xã TĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng;  Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Phạm Văn L (L) và bà Nông Thị M (M) (Đều đã chết).

Gia đình bị cáo có 08 anh, chị em, bị cáo là con thứ bảy Có vợ là Vy Thị Thúy, sinh năm 1984 và 01 con sinh năm 2002.

Tiền án: Có 03 tiền án:

+ Tại bản án số: 424/HSST ngày 23/11/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Văn S 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. (Chấp hành xong bản án ngày 07/12/2012).

+ Tại bản án số: 53/2013/HSST ngày 23/10/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Văn S 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/8/2014).

+ Tại bản án số: 328/2015/HSST ngày 25/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Văn S 42 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/11/2018).

Tiền sự: Không.

Nhân thân:Tại bản án số: 84/2020/HSST ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Văn S 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên toà).

Người bị hại: Trạm khai thác thủy lợi Đ Đại diện theo pháp luật: Ông Ma Văn Toán, sinh năm 1976; Chức vụ: Trạm trưởng trạm khai thác thủy lợi Đ.

Trú tại: Tổ dân phố Trung Tâm, thị trấn Chợ Chu, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại:

Anh Ngô Quang H, sinh năm 1983 Trú tại: Xóm 3 KT, xã KS, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt có lý do).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 Trú tại: Xóm NB, xã TĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

1. Bà Triệu Thị Y, sinh năm 1961.

Trú tại: Xóm NB, xã TĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Ông Trần Văn V, sinh năm 1958 Trú tại: Xóm BP, xã TĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 02/4/2020 Phạm Văn S đi bộ đến nhà ông Trần Văn V ở cùng xóm để lấy tiền công xây dựng, khi đi qua khu nhà quản lý hồ BP (Do Trạm khai thác thủy lợi huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xây dựng và quản lý), quan sát thấy không có người trông coi nên S nảy sinh ý định vào bên trong, trộm cắp tài sản. S trèo qua cổng sắt, đi vào nhà vệ sinh, thì thấy 01 chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng, S liền dùng tay rung, lắc chiếc bồn cầu làm cho bồn cầu bật phần chân được gắn xi măng với nền nhà vệ sinh. Sau đó S vác chiếc bồn cầu lên vai, trèo qua cổng sắt đi ra ngoài, đi được khoảng 50 mét thì cất chiếc bồn cầu vào bụi cây bên phải đường. S tiếp tục đi bộ đến nhà ông V và hỏi ông V có mua bồn cầu không thì được ông V trả lời không mua, nên S đi bộ đến nhà Nguyễn Văn C hỏi C có mua bồn cầu không, C trả lời “Cứ mang xuống đây”. S quay lại vị trí cất giấu và mang chiếc bồn cầu đã trộm cắp được bán cho Nguyễn Văn C với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) S đã tiêu sài cá nhân hết số tiền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 11/KL-ĐG ngày 09/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự của UBND huyện Đ kết luận: 01 (một) bồn cầu vệ sinh, nhãn hiệu Vinaselas, đã qua sử dụng, mua tháng 12 năm 2018 có giá trị là: 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án là 01 chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng đã qua sử dụng. Sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Định Hoá đã trả lại cho Trạm khai thác thuỷ lợi Định Hoá là chủ sở hữu quản lý, sử dụng.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Quá trình điều tra người đại diện theo ủy quyền của bị hại yêu cầu xử lý bị cáo theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì thêm.

Bản Cáo trạng số 42/CT-VKSĐH, ngày 12/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội "Trộm cắp tài sản", theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như đã truy tố trong Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (26/7/2020).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Truy thu số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng do bị cáo bán chiếc bồn cầu mà có.

Về vật chứng: Vật chứng của vụ 01 chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng đã qua sử dụng. Đã trả lại cho Trạm khai thác thuỷ lợi Định Hoá là chủ sở hữu quản lý, sử dụng. Không yêu cầu xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của bị hại không đề nghị. HĐXX không xem xét. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại địa phương, không có mặt tại phiên tòa do vậy quyền, nghĩa vụ của ông C được xem xét giải quyết ở vụ án khác khi ông C có yêu cầu.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh lụân tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh, điều luật truy tố: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định:

Do lười lao động, bị cáo nẩy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để lấy tiều tiêu xài cá nhân. Do vậy, ngày 02/4/2020 bị cáo một mình đi bộ qua khu nhà quản lý hồ BP (Do Trạm khai thác thủy lợi huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xây dựng và quản lý), quan sát thấy không có người trông coi nên S nảy sinh ý định vào bên trong, trộm cắp tài sản. S trèo qua cổng sắt, đi vào nhà vệ sinh, thì thấy 01 chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng, S liền dùng tay rung, lắc chiếc bồn cầu làm cho bồn cầu bật phần chân được gắn xi măng với nền nhà vệ sinh. Bị cáo S vác chiếc bồn cầu và trèo qua cổng sắt đi ra ngoài, đi được khoảng 50 mét thì cất chiếc bồn cầu vào bụi cây bên phải đường. Bị cáo đến nhà ông V và hỏi ông V có mua bồn cầu không thì được ông V trả lời không mua, nên đã đến nhà Nguyễn Văn C hỏi C có mua bồn cầu không, C trả lời “Cứ mang xuống đây”. Bị cáo quay lại vị trí cất giấu và mang chiếc bồn cầu đã lấy được bán cho Nguyễn Văn C với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và tiêu xài hết. Khi mua bồn cầu của bị cáo, ông C không biết đấy là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 11/KL-ĐG ngày 09/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự của UBND huyện Đ kết luận: 01 (một) bồn cầu vệ sinh, nhãn hiệu Vinaselas, đã qua sử dụng, mua tháng 12 năm 2018 có giá trị là: 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Bản Cáo trạng số: 42/CT-VKSĐH, ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1Điều 173 BLHS.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác...dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

b) Đã bị kết án về tội này… chưa được xoá án tích mà còn vi phạm;”

[3] Về tính chất, hành vi phạm tội:

Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của công dân, đi ngược lại công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của toàn xã hội, đã xâm phạm đến các điều cấm được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hành vi bị cáo đã thực hiện phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo. Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng đó là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ vào nhân thân, tính chất của vụ án và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy rằng bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện, gây thiệt hại về vật chất cho người khác. Bị cáo gây thiệt hại nhưng đến nay chưa khắc phục thiệt hại do hành vi bị cáo đã gây ra. Vì vậy, cần có hình phạt phù hợp, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng đã qua sử dụng. Đã trả lại cho Trạm khai thác thuỷ lợi Định Hoá là chủ sở hữu quản lý, sử dụng. Quá trình điều tra đại diện theo ủy quyền của bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn C đã mua chiếc bồn cầu với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Quá trình điều tra ông C không để nghị bị cáo phải trả lại số tiền đã trả mua chiếc bồn cầu. Tại phiên tòa ngày hôm nay ông C vắng mặt, do vậy đối với số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng ông C đã mua chiếc bồn cầu sẽ được xem xét ở vụ án khác khi có yêu cầu.

[7] Về vật chứng của vụ án: Chiếc bồn cầu (bồn vệ sinh), nhãn hiệu Vinaselas, màu trắng đã qua sử dụng. Đã trả lại cho Trạm khai thác thuỷ lợi Định Hoá là chủ sở hữu quản lý, sử dụng. Do vậy, HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

[9] Xét đề nghị của vị Kiểm sát viên tại phiên tòa. Về tội danh, điều luật áp dụng, hình thức xử lý đối với bị cáo bằng hình phạt tù, trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí và quyền kháng cáo là phù hợp, đúng pháp luật và cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S phạm tội "Trộm cắp tài sản".

1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS; Khoản 2 Điều 260; Khoản 1 Điều 268; Khoản 1 Điều 269; Khoản 1 Điều 298; Điều 329 Bộ luật TTHS:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/7/2020.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (10/12/2020) để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: HĐXX không xem xét.

3. Án phí và quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 135; 136; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm. Có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện theo ủy quyền của bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2020/HSST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;