Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 530/2019/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2020/QĐS-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thiên Y, sinh năm: 1994 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ 31/38 Ô3, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Phạm V, sinh năm: 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 10/8 Ô2, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thiên Y trình bày:

Chị Nguyễn Thị Thiên Y và anh Phạm V tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 238 ngày 04/10/2016.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình chồng tại thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thời gian đầu vợ chồng chung sống khá hạnh phúc cũng như bao cặp vợ chồng khác. Một thời gian sau anh V bắt đầu bỏ bê công việc mà chỉ lo chơi bời, tụ tập bạn bè thậm chí còn bán cả xe máy của chị Y. Sự việc xảy ra để giữ gìn hành phúc gia đình chị Y đã tha thứ bỏ qua nhưng anh V vẫn không thay đổi mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Cụ thể, sau khi sinh con được hơn 01 tháng vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh V không chịu đi làm chỉ lo ăn chơi, cờ bạc, cá độ bóng đá và còn có những lời lẻ khó nghe bị gia đình la mắng nên bỏ đi không liên lạc được. Mặc dù vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nhưng chị Y vẫn chờ đợi và cho anh V cơ hội để vợ chồng hàn gắn tình cảm cùng nhau lo cho con cái nhưng vẫn không liên lạc được. Thỉnh thoảng anh V có liên lạc với gia đình nhưng không hỏi han đến vợ con, do đó chị chị Y yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Y yêu cầu được ly hôn với anh V.

- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Phạm H, sinh ngày 10/4/2018, chị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Huy đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì.

Theo kết quả xác minh anh Phạm V đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 10/8 Ô2, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hiện nay vắng mặt tại địa phương.

Theo bà Lê Thị P, sinh năm: 1973 là mẹ ruột của anh V cung cấp thì anh V bỏ nhà đi theo một người phụ nữ ở Miền tây, nhưng không biết ở đâu. Bà P có nhận một số văn bản do Tòa án tống đạt và có thông báo cho anh V biết việc chị Y xin ly hôn nhưng anh V không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Anh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, những vắng mặt không có lý do; chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Trong quá trình tố tụng nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn vắng mặt trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa là không chấp hành quy định của pháp luật tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Y đối với anh V. Về quan hệ hôn nhân chị Y được ly hôn với anh V; về con chung giao cháu Huy cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh V và giao cháu Huy cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện chị Y yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với anh V được xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh V và chị Y tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị Y, quá trình chung sống anh V không lo tu chí làm ăn mà bỏ bê công việc, tụ tập bạn bè không quan tâm đến gia đình. Sự việc xảy ra chị Y đã tha thứ bỏ qua, nhưng sau khi sinh con được hơn 01 tháng vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, anh V có những lời lẻ khó nghe bị gia đình la mắng nên bỏ nhà đi. Từ khi anh V bỏ đi không hề liên lạc với chị Y mà thỉnh thoảng có liên lạc với gia đình nhưng không hỏi thăm vợ con sống như thế nào. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Y xin ly hôn với anh V. Trong qúa trình tố tụng cũng như tại phiên tòa anh V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng (tống đạt qua người thân) và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng cố tình vắng mặt cho thấy không có thiện chí hòa giải đoàn tụ mà bỏ mặc cho mâu thuẫn đến đâu thì đến. Bà Lê Thị Phước là mẹ ruột của anh V cho biết sau khi nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt bà Phước có thông báo cho anh V biết là chị Y đang làm thủ tục ly hôn nhưng không có ý kiến gì. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng là có thật, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình thì yêu cầu xin ly hôn của chị Y là có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Phạm H, sinh ngày 10/4/2018, chị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu H đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện nay cháu H đang ở với mẹ và chị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi con nên giao cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp. Việc chị Y không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận.

[3.3] Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Chị Y là nguyên đơn nên phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 228, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thiên Y về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Phạm V.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thiên Y được ly hôn với anh Phạm V.

- Về con chung: Giao cháu Phạm H, sinh ngày 10/4/2018 cho chị Nguyễn Thị Thiên Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và anh Phạm V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về quan hệ tài sản: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thiên Y phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2019/0002649 ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

“Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:45/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;