Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 307/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2019 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hùng P, sinh năm 1966 (Có mặt)

HKTT: Thôn T, xã B, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

- Bị đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1964 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 19/8/2019 và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – ông Nguyễn Hùng P trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Ông kết hôn với bà Đỗ Thị H năm 1989 trên cơ sở tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương và có sự đồng ý của gia đình hai bên. Trước khi cưới, vợ chồng ông được tìm hiểu thời gian rất ngắn. Sau khi cưới, bà H về làm dâu gia đình nhà ông ngay và vợ chồng chung sống cùng bố mẹ ông đến năm 1991 thì vợ chồng ra ở riêng. Quá trình chung sống, vợ chồng ông hạnh phúc từ khi kết hôn đến khoảng năm 2013- 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông có quan hệ ngoài luồng với người khác nên vợ chồng không còn quan tâm nhau chứ vợ chồng ông không đánh cãi, chửi nhau bao giờ. Vợ chồng ông sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, không ai còn quan tâm tới ai. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn từ lâu và hiện giờ ông đã có người phụ nữ khác nên ông đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận ông và bà H là vợ chồng do không có đăng ký kết hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1990. Hiện cháu L đã lập gia đình và ở riêng, ở với ai là tùy cháu L nên ông không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì liên quan nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn – bà Đỗ Thị H có lời khai trình bày trong hồ sơ như sau:

Về quan hệ vợ chồng: Bà và ông P kết hôn với nhau năm 1989 nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ tổ chức cưới theo phong tục địa phương. Trước khi cưới, vợ chồng bà được tìm hiểu nhau khoảng nửa tháng rồi cưới. Sau khi cưới bà về làm dâu gia đình nhà ông P ngay và sống cùng bố mẹ ông P đến năm 1992 thì vợ chồng ra ở riêng. Cuộc sống vợ chồng bà hạnh phúc từ khi cưới đến năm 2016 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do ông P có quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác. Mặc dù ông P có quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác từ trước năm 2016 nhưng trước đó thì ông P vẫn thường xuyên đi về. Tuy nhiên, từ năm 2016 cho đến nay thì ông P không về nhà nữa mà thuê nhà trọ chung sống cùng người phụ nữ khác. Khi biết ông P có quan hệ với người phụ ữ khác, bà có khuyên bảo nhưng ông P không nghe. Vợ chồng ông bà sống ly thân từ nhiều năm nay, không ai còn quan tâm tới ai. Nay ông P đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông bà thì bà không nhất trí vì bà không muốn ảnh hưởng tới cuộc sống của con gái bà, muốn cháu ngoại khi về chơi vẫn có ông có bà còn tình cảm với ông P bà xác định không còn tình cảm gì và cũng không có gì liên quan tới nhau.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1990. Hiện cháu L đã trưởng thành và có gia đình riêng nên bà không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì liên quan nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn – ông Nguyễn Hùng P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình đối với bà H. Về quan hệ vợ chồng ông yêu cầu Toà án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông và bà H, ông xác định vợ chồng ông kết hôn với nhau năm 1989 nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về con chung, ông xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1990. Hiện nay, cháu L đã trưởng thành và có gia đình riêng, ở với ai là tùy các cháu, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác ông xác định không có liên quan nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn bà Đỗ Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX công bố lời khai của bà H có trong hồ sơ. Ông P không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành phát luật của nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.

Về ý kiến giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 9; Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án xử:

Về quan hệ vợ chồng: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Hùng P và bà Đỗ Thị H.

Án phí: Ông Nguyễn Hùng P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn là bà Đỗ Thị H có địa chỉ tại Thôn T, xã B, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nên theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Về việc vắng mặt bà H: Tại phiên toà, bà H vắng mặt nhưng bà đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ vợ chồng: Ông Nguyễn Hùng P và bà Đỗ Thị H đều khai ông bà chỉ tổ chức cưới theo phong tục địa phương chứ không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do ông P có quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác nên vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay ông P đề nghị Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông và bà H, bà H không nhất trí vì bà muốn giữ lại thể diện cho gia đình và con gái, bản thân bà không còn tình cảm gì với ông P. Hội đồng xét xử xét thấy: Qua nghiên cứu, xem xét tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Bích Sơn nơi ông P, bà H cư trú cho biết ông P bà H không có đăng ký kết hôn. Ông P và bà H chung sống với nhau như vợ chồng năm 1989 nhưng không đăng ký kết hôn đã vi phạm Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, theo hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Nghị Quyết 35 ngày 09/6/2000 của Quốc hội 10 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình, ông P, bà H phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực, tức là từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2001 đến nay, tuy có đủ điều kiện kết hôn nhưng ông P bà H vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định, vi phạm Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay, do mâu thuẫn giữa ông P và bà H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông P yêu cầu Toà án không công nhận ông bà là vợ chồng. Bà H không đồng ý với yêu cầu của ông P với lý do bà muốn giữ thể diện cho gia đình, con gái, muốn cháu ngoại về chơi có ông có bà chứ giữa bà với ông P không còn tình cảm gì với nhau. Lý do bà H không đồng ý với yêu cầu của ông P là không có căn cứ chấp nhận bởi cả bà và ông P đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không ai còn quan tâm tới ai nên mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 06-01 -2016 giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của ông P.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Hùng P và bà Đỗ Thị H xác nhận ông bà có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh L. Hiện cháu L đã trưởng thành và có gia đình riêng nên ông bà không yêu cầu Toà án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[4] Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng đất: Ông Nguyễn Hùng P và bà Đỗ Thị H đều xác định không có liên quan, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, ông Nguyễn Hùng P phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 9; Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. - Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Hùng P và bà Đỗ Thị H.

Về án phí: Ông Nguyễn Hùng P phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2012/05614 ngày 25/9/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Ông P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo thời hạn kháng cáo là 15 ngày cho các đương sự có mặt biết kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;