Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Trì, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 413/2019/TLST-HNGĐ ngày 09/8/2019 về tranh chấp "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T - SN 1991 (Có mặt)

ĐKHKTT: thôn N, xã L, huyện T, TP Hà Nội

Nơi cư trú: thôn T, xã N, huyện T1, TP Hà Nội

- Bị đơn: Anh Vũ Văn Q - SN 1990 (Vắng mặt)

ĐKHKTT+nơi cư trú: thôn N, xã L, huyện T, TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 01/8/2019 và các văn bản khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Vũ Thị T trình bày:

Chị và anh Vũ Văn Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 19/4/2012 tại UBND xã L, huyện T, Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống chung với gia đình nhà chồng tại thôn N, xã L, huyện T, Hà Nội. Vợ chồng sống chung đến khi chị sinh con đầu lòng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Q không chịu lao động, chơi bời nợ nần và ngoại tình với người phụ nữ khác. Chị đã nhiều lần bỏ qua nhưng anh Q không chịu sửa chữa. Chị đã ra ngoài thuê nhà sống và hiện nay không còn tình cảm với chồng. Chị xin được ly hôn anh Q và không đồng ý đoàn tụ.

Về con chung: vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016. Sau ly hôn chị xin trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nhà ở, công nợ: vợ chồng không tranh chấp gì về tài sản chung, chị T không yêu cầu Tòa án xem xét.

Tại văn bản ngày 11/8/2019 và các văn bản tiếp theo, bị đơn là anh Vũ Văn Q trình bày:

Anh và chị Vũ Thị T kết hôn tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã L, huyện T, Hà Nội ngày 19/4/2012. Sau khi lấy nhau vợ chồng sống chung với bố mẹ anh tại thôn N, xã L, huyện T, Hà Nội. Anh Q thừa nhận trong quá trình chung sống, vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do anh mải chơi. Anh muốn vợ chồng đoàn tụ vì tình cảm vẫn còn. Từ sau khi vợ chồng sống ly thân, chị T ra ngoài thuê nhà sinh sống, anh đã gặp vợ để thuyết phục vợ quay về, nhưng chưa được. Anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, nhưng nếu chị T cương quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: anh Q xác nhận vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016. Nếu chị T xin được nuôi hai con chung sau khi ly hôn thì anh cũng đồng ý. Trường hợp nếu chị T không nuôi con thì anh sẽ có trách nhiệm nuôi hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nhà ở, công nợ: vợ chồng anh không tranh chấp gì về tài sản chung và anh Q không yêu cầu Tòa án xem xét.

Tại phiên tòa hôm nay:

Chị T vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày ở trên. Chị không đồng ý đoàn tụ, chị xin được nuôi hai con chung sau ly hôn và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Chị tự lo được chỗ ở cho ba mẹ con sau ly hôn Anh Q vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định về tố tụng dân sự. Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T với anh Vũ Văn Q. Về con chung: vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016. Giao hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xét. Về tài sản chung: Vợ chồng anh chị không tranh chấp, không yêu cầu gì về tài sản chung nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự và của Đại diện Viện Kiểm sát; sau khi nghị án, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Chị Vũ Thị T và anh Vũ Văn Q kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 19/4/2012 tại UBND xã L, huyện T, TP Hà Nội. Như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp tiến bộ. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại hôn N, xã L, huyện T, TP Hà Nội. Chị T khai, trong cuộc sống chung, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng không thể khắc phục được, nguyên nhân do anh Q lười lao động, ham chơi, nợ nần nhiều. Anh Q thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh, anh xin có thời gian để sửa chữa và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải đoàn tụ nhưng anh Q vắng mặt không có lý do. Bản thân anh Q cũng đã tự thuyết phục vợ quay về đoàn tụ nhưng không được. Như vậy chứng tỏ mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã đến mức trầm trọng, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở để chấp nhận. Căn cứ vào các Điều 51, 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Vũ Thị T đối với anh Vũ Văn Q.

[2] Về con chung: chị T, anh Q đều xác nhận vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016. Chị T xin được nuôi hai con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; anh Q cũng nhất trí để chị T nuôi hai con chung sau ly hôn. Do vậy, căn cứ vào các Điều 58, 71, 72, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao hai con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Anh Q có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung, nhà ở, công nợ: chị T và anh Q không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu sau này có tranh chấp thì dành quyền khởi kiện cho các đương sự bằng một vụ án khác.

[4] Về thủ tục tố tụng: Anh Q đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có do. Hội đồng xét xử nhận thấy việc xét xử và ra bản án vắng mặt đối với anh Q là phù hợp với khoản 2 Điều 227 - Bộ luật tố tụng dân sự 2015

[5] Về án phí: chị T phải chịu án phí theo quy định tại khoản khoản 4 Điều 147 - Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và điểm a khoản 5 - Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 - Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227; các Điều 271, 273 - Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Các Điều 51, 54, 56, 58, 71, 72, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 - Điều 26 - Luật Thi hành án dân  sự - Khoản 5 - Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T được ly hôn anh Vũ Văn Q.

2. Về con chung: xác nhận chị T và anh Q có 02 con chung là cháu Vũ Nhật M sinh ngày 25/12/2012 và cháu Vũ Minh K sinh ngày 25/10/2016. Giao cháu M và cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Các bên có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho đến khi các bên có đơn yêu cầu hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

3. Về tài sản chung, nhà ở, công nợ: chị T và anh Q không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí: chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp tại biên lai số AA/2016/0009052 ngày 08/8/2019 tại Cơ quan Thi hành án dân sự huyện T, TP Hà Nội. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Chị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Anh Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Về việc thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;