Bản án 45/2018/HSST ngày 11/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 45/2018/HSST NGÀY 11/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/7/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2018/TLST-HS ngày 12/6/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2018/QĐXXST-HS ngày 25/6/2018 đối với bị cáo Phàng Thị D tên gọi khác Phàng Thị R, sinh 03/7/1997. Nơi cư trú Bản Đá Đ, xã Kim B, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp trồng trọt; Quốc tịch Việt Nam; dân tộc Mông; tôn giáo không;  đảng phái đoàn thể không. Trình độ học vấn không biết chữ, con Ông Phàng A G (đã chết), con Bà Thào Thị M; chồng Sồng A L; có 03 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 13/01/2018 đến 22/01/2018 (bằng 09 ngày) tại ngoại, trong thời gian tại ngoại bị cáo bỏ trốn, ngày 09/5/2018 bị bắt tạm giam cho đến ngày xét xử (bắt theo quyết định truy nã có mặt tại phiên tòa).

- Người phiên dịch cho bị cáo Phàng Thị D, tên khác Phàng Thị R làÔng Cầm Đình Cốc, trú tại khối 12 thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

- Người bào chữa cho bị cáo Phàng Thị D, tên khác Phàng Thị R là Ông Cầm Trọng Thủy, trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14h 10’ ngày 13/01/2018 tổ công tác Công an huyện Phù Yên đã phát hiện và bắt quả tang Phàng Thị D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói chất bột mầu trắng nghi là Hêrôin gói bằng ni lon màu xanh được niêm phong lại và 01 chiếc ĐTDĐ nhẵn hiệu NOKIA màu đen.

Ngày 14/01/2018 cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên, VKSND huyện phối hợp với công an tỉnh và người bị bắt tiến hành mở niêm phong, cân tịnh 01 gói ma túy thu giữ của Phàng Thị D có khối lượng 2,326gam; lấy 0,075 gam gửi giám định, số còn lại niêm phong lại.

Tại bản kết luận giám định số 225/KLGĐ ngày 19/01/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

- Mẫu vật gửi giám định ký hiệu R là chất ma túy, loại chất Hêrôin;khối lượng gửi giám định là 0,075gam.

- Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 2,326gam, loại chất Hêrôin.

Tại cơ quan điều tra Phàng Thị D khai nhận ngày 12/01/2018 D có đến nhà anh Giàng A Páo L ở Mộc Châu chơi, sau đó bắt xe khách về Phù Yên, khi đến Bản Dằn B xã Kim Bon, thì nhận được cuộc điện thoại của L, L nói có để 01 gói ma túy trong túi đồ của D và bảo cất hộ khi nào L sang chơi sẽ cùng sử dụng, nghe vậy D mở túi ra kiểm tra và thấy 01 gói ma túy gói bằng giấy ni lon màu xanh, D cầm lấy cất vào ví rồi ngủ ở lán nương. Sáng ngày 13/01/2018 trên đường về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang. VKSND huyện Phù Yên có bản cáo trạng số: 29/KSĐT-MT ngày 12/6/2018 truy tố bị cáo về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy .

* Đối với người có tên Giàng A Páo L, trú tại Bản Ông L, xã Chiềng K, huyện Mộc Châu, cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên tiến hành xác minh, qua xác minh thì hiện đối tượng không có mặt tại nơi thường trú, nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[-] Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên tham gia trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS và bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, do đó HĐXX khẳng định các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[-] Tại phiên tòa bị cáo Phàng Thị D, thừa nhận được cất giữ 2,326gam Hêrôin ở trong ví đeo trên người, sáng ngày 13/01/2018 trên đường từ bản Dằn B về bản Đá Đỏ, xã Kim Bon thì bị công an phát hiện bắt quả tang. Vật chứng bị thu giữ là 01 gói Hêrôin và 01 chiếc ĐTDĐ nhẵn hiệu NOKIA màu đen. Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố bị cáo về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01năm đến 05 năm.

c, Hêrôin,…..có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam

Tại khoản 5 Điều 249 BLHS còn quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt  tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ..tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[-] Xét tính chất mức độ hành vi phạm Tội tàng trữ 2,326 gam Hêrôin của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó xâm phạm trực tiếp đến khách thể thuộc quyền quản lý đặc biệt của nhà nước, trong vụ án này bị cáo khai có nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy để sử dụng thì bị bắt, được chứng minh tại biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14h10’ ngày 13/01/2018 cũng như các bản khai và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ căn cứ kết tội bị cáo phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

[-] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[-] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: chưa có tiền án, tiền sự, khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cần xem xét áp dụng cho bị cáo. Tuy nhiên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm. Trong giai đoạn điều tra bị cáo đã bị tạm giữ, sau đó được tại ngoại do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (9 ngày bị tạm giữ sẽ được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù cho bị cáo), nhưng đã bỏ trốn khỏi địa phương, gây khó khăn cho cơ quan điều tra, ngày 2/4/2018 công an ra quyết định truy nã, đến ngày 09/5/2018 bị bắt tạm giam cho đến ngày xét xử, do đó cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội để cải tạo, giáo dục sớm trở thành công dân có ích sau này.

* Về vật chứng vụ án:

+ Cần tịch thu tiêu hủy 2,251gam Hêrôin số còn lại.

+ 01 chiếc ĐTDĐ hiệu NOKIA vỏ màu đen có chữ và số IMEL 355127072334982, tại phiên tòa bị cáo khẳng định đó là tài sản của bị cáo, mặc dù bị cáo không sử dụng gọi đi mà chỉ nghe khi người có tên mà bị cáo khai là Giàng A Páo L gọi đến, qua đó biết được trong túi đồ của bị cáo có ma túy do đó cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

* Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma ma túy, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo không có tài sản gì nên không áp dụng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Phàng Thị D tức Phàng Thị R từ 24 - 30 tháng tù, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc ĐTDĐ của bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo, việc đề nghị của KSV là hoàn toàn có căn cứ cần chấp nhận.

Cũng tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Phàng Thị D có quan điểm và đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo của xã Kim B, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La miễn án phí cho bị cáo HĐXX cần chấp nhận.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phàng Thị D là hộ nghèo được hưởng chế độ chính sách của nhà nước, theo quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 03/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã Kim B, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La cần được miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phàng Thị D tức Phàng Thị R, phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a, c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí:

- Xử phạt bị cáo Phàng Thị D tức Phàng Thị R 20 (hai mươi) tháng tù. Được khấu trừ 09 ngày bị tạm giữ, còn phải chấp hành tiếp 19 (mười chín) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 9/5/2018.

- Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy 2,251gam Hêrôin số còn lại cùng giấy gói và phong bì thư ban đầu (đã niêm phong).

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc ĐTDĐ hiệu NOKIA vỏ màu đen có chữ và số IMEL 355127072334982 của bị cáo Phàng Thị D.

-  Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn nộp toàn bộ án phí HSST cho bị cáo Phàng Thị D tức Phàng Thị R.

- Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2018/HSST ngày 11/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;