Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 7 năm 2018.Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2018/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 03 năm 2018, về: Tranh chấp hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/QĐXX-ST ngày 28 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Vân A (tức Vũ Minh A), sinh năm 1996 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: thôn B1, xã TH, huyện LNg, tỉnh BG.

- Bị đơn: Anh Vũ Văn L, sinh năm 1985 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: thôn TH, xã TH, huyện LNg, tỉnh BG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 13/03/2018 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Vũ Thị Vân A, trình bầy:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vũ Văn L đăng ký kết hôn với nhau ngày 02/6/2016 có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện LNg, tỉnh BG. Trước khi đi đăng ký kết hôn 02 bên có được tự do tìm hiểu thỏa thuận nhưng không tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, không thông báo cho 02 bên gia đình biết. Sau khi đăng ký kết hôn chị và anh L có chung sống với nhau được khoảng 01 năm thì xẩy ra mâu thuẫn trong sinh hoạt hằng ngày chị và anh L thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng không có sự hòa hợp, không có sự quan tâm chăm sóc đến nhau chị và anh L đã sống ly thân từ tháng 7/2017 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn L.

- Về con chung: Chị và anh Vũ Văn L không có con chung.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có cho nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

Tòa án tiến hành làm việc với ông Nguyễn Văn L là Trưởng thôn TH, xã TH, ông L cho biết: Anh Vũ Văn L, sinh năm 1985, hiện nay có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn TH, xã TH, huyện LNg anh L hiện nay đang sinh sống cùng với bố mẹ đẻ là ông Vũ Văn Đ và bà Trần Thị T, anh L chưa làm thủ tục chuyển khẩu và tách khẩu đi nơi khác, do anh L là lao động tự do nên anh L thường xuyên vắng mặt không có ở địa phương Tòa án cùng địa phương cũng đã nhiều lần xuống nhưng không gặp anh L. Về quan hệ vợ chồng giữa anh L và chị Vũ Thị Vân A, ông không nắm được do chị Vân A không có đăng ký hộ khẩu thường trú hay tạm trú và cũng không sinh sống tại địa phương cho nên địa phương không biết chị Vân A là ai, giữa chị Vân A và anh L có mâu thuẫn gì địa phương cũng không biết. Về phía gia đình anh L không thấy tổ chức cưới hỏi cho vợ chồng anh L và chị Vân A cho nên địa phương cũng không biết thông tin gì về cuộc sống vợ chồng giữa anh L và chị Vân A.

Tòa án tiến hành làm việc với ông Vũ Văn Đ là bố đẻ anh Vũ Văn L, được ông Đ cho biết như sau: Ông là bố đẻ anh Vũ Văn L, gia đình ông không biết việc anh L có đăng ký kết hôn với chị Vũ Thị Vân A, anh L cũng không nói chuyện gì với gia đình ông cho nên gia đình ông cũng không tổ chức lễ cưới hỏi cho nên 02 bên gia đình ông và gia đình chị Vân A cũng không có sự đi lại gặp gỡ nhau. Anh L và chị Vân A tự ý đi đăng ký kết hôn và tự thuê nhà chung sống với nhau gia đình ông không ai biết về cuộc sống hôn nhân của vợ chồng anh L. Hiện nay anh L là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định thường xuyên vắng mặt không có ở nhà. Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng anh L và chị Vân A sinh sống ở đâu và có mâu thuẫn như thế nào gia đình ông cũng không nắm được. Nay chị Vân A có đơn xin ly hôn anh L ông đề nghị Tòa án giải quyết cho anh L và chị Vân A ly hôn vì vợ chồng anh L không còn tình cảm. Do anh L và chị Vân A đăng ký kết hôn gia đình ông không biết và không chung sống cùng gia đình nhà ông nên ông không biết anh L và chị Vân A có con chung và tài sản chung, công nợ chung hay không. Do anh L thường xuyên không có mặt ở nhà cho nên Tòa án không thể làm việc và giao trực tiếp các văn bản tố tụng được cho anh L, ông đồng ý nhận văn bản tố tụng của Tòa án và cam kết có trách nhiệm giao các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh L biết.

Bà Trần Thị Tr là mẹ đẻ anh Vũ Văn L trình bầy: Bà là mẹ đẻ anh Vũ Văn L, bà không biết việc anh Vũ Văn L có đăng ký kết hôn với chị Vũ Thị Vân A. Gia đình bà cũng không tổ chức lễ cưới cho anh L và chị Vân A, anh L và chị

Vân A tự đi đăng ký kết hôn và chung sống với nhau, gia đình bà không ai biết. Anh L không có ghề nghiệp ổn định, thường xuyên không có mặt ở nhà cho nên sau khi đăng ký kết hôn anh L và chị Vân A sinh sống ở đâu thì gia đình bà cũng không nắm được nên mâu thuẫn vợ chồng giữa anh L và chị Vân A như thế nào bà cũng không biết. Do anh L và chị Vân A đăng ký kết hôn không thông báo cho gia đình bà cho nên bà cũng không biết anh L và chị Vân A có con chung và tài sản chung, công nợ chung hay không.

Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn chị Vũ Thị Vân A vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện, đề nghị HĐXX cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn L vì tình cảm vợ chồng không còn. Anh Vũ Văn L cũng có biết chị nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L. Vì trước khi Tòa án có quyết định mở phiên tòa anh L có biết và đã liên lạc với chị, anh L có nói với chị Tòa án giải quyết như thế nào thì tùy anh cũng không có ý kiến gì.

Đại Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Nguyên đơn chị Vũ Thị Vân A đã chấp hành tốt về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Vũ Văn L không chấp hành tốt không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Về đường lối giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Xử, chấp nhận đơn khởi kiện của chị Vũ Thị Vân A. Về quan hệ hôn nhân cho chị Vân A được ly hôn anh Vũ Văn L.

Về con chung: Anh L và chị Vân A không có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Tòa án đã nhiều lần cùng địa phương xuống gia đình anh Vũ Văn L ở thôn TH, xã TH, huyện LNg để tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng không thực hiện được tống đạt trực tiếp được cho anh L. Tòa án tiến hành làm việc với ông Nguyễn Văn L là Trưởng thôn TH, xã TH thì ông L cho biết hiện nay anh Vũ Văn L hiện nay vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn TH, xã TH và thu thập sổ hộ khẩu gia đình ông Vũ Văn Đ là bố đẻ anh L do Công an xã TH, huyện LNg cung cấp thì thấy hộ khẩu đứng chủ hộ là ông Vũ Văn Đ trong hộ khẩu gia đình hiện nay anh Vũ Văn L vẫn là thành viên trong gia đình có đăng ký hộ khẩu tại thôn TH, xã TH. Lời khai của ông Vũ Văn Đ là bố đẻ anh L và lời khai của bà Trần Thị T là mẹ đẻ anh L đều xác định anh Vũ Văn L là con của ông bà hiện nay vẫn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn TH, xã TH vẫn chung sống cùng gia đình, nhưng do anh L là lao động tự do, thường xuyên vắng mặt tại địa phương Tòa án đã nhiều lần xuống gia đình anh L để tiến hành tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho anh L nhưng không tống đạt trực tiếp được anh L căn cứ vào khoản 5 Điều 177; Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Vũ Văn Đ là bố đẻ và cùng hộ khẩu với anh L, đồng thời tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật đối với anh L.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với anh Lâm, nhưng tại phiên Tòa anh L vẫn vắng mặt không lý do căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh L.

[2].Về nội dung: Chị Vũ Thị Vân A và anh Vũ Văn L đăng ký kết hôn với nhau ngày 02/6/2016 có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện LNg, tỉnh BG đây là hôn nhân hợp pháp, cần được pháp luật bảo vệ.

Trước khi đi đăng ký kết hôn 02 bên có được tự do tìm hiểu thỏa thuận nhưng không tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, không thông báo cho 02 bên gia đình biết. Sau khi đăng ký kết hôn chị và anh L có chung sống với nhau được khoảng 01 năm thì xẩy ra mâu thuẫn trong sinh hoạt hằng ngày chị và anh L thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung vợ chồng không có sự hòa hợp, vợ chồng không có sự quan tâm chăm sóc đến nhau. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay chị Vân A và anh L đã sống ly thân, không có sự quan tâm chăm sóc đến nhau tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án triệu tập hợp lệ đối với anh L để tiến hành hòa giải quan hệ vợ chồng nhưng anh L vắng mặt Tòa án đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được, HĐXX xét thấy cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho chị Vân A được ly hôn anh L.

- Về con chung: Chị Vân A và anh L không có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng không có cho nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Vũ Thị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 28; Điều 35; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Vân A.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị Vân A được ly hôn anh Vũ Văn L. Về án phí: Chị Vũ Thị Vân A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền chị Vân A đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2016/0003291 ngày 21/03/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện LNg, tỉnh BG. Xác nhận chị Vân A đã nộp đủ.

Chị Vũ Thị Vân A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;