Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 09 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 204/2017/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2017, về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10/01/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Lệ H, sinh năm 1990

Địa chỉ: Thôn T, xã T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Chỗ ở hiện nay: Tổ B, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Trần Văn V, sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn T, xã T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có được tự do tìm hiểu, có có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Có đăng ký kết hôn ngày 26/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố T. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống và làm việc Thôn T, xã T, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, hạnh phúc được 1 thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, anh V. đua đòi bạn bè chơi cờ bạc, rượu chè về đánh chửi vợ con vô cớ. Nay chị H. xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Quá trình giải quyết anh Trần Văn V. xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, anh nhất trí ly hôn với chị H.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Trần Bảo Ng., sinh ngày 02/02/2012. Quá trình giải quyết anh Trần Văn V. và chị Đặng Lệ H. cùng có quan điểm được nhận nuôi cháu Ngọc và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. có hộ khẩu thường trú và cùng sinh sống, làm việc tại Thôn T, xã T, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong gia đình, Hiện tại vợ chồng đang sống ly thân nhau, chị H. đang sống ở nhà bố mẹ đẻ ở Tổ B, phường T, thành phố T. Ở địa phương anh V. là lao động tự do, có đi lái xe taxi thuê, thu nhập không ổn định. Chị H. làm công nhân công ty may ở khu công nghiệp L, thành phố T, thu nhập ổn định.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Riêng phía bị đơn không chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Về nội dung vụ án: Chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. kết hôn với nhau vào ngày 26/10/2011 tại UBND xã T, thành phố Tlà hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, sau đó chị H. bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh V. Anh V. cũng xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và nhất trí ly hôn với chị H. Do vậy, Căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ, đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị H. Về con chung: Do hiện tại anh V. là lao động tự do thu nhập không ổn định, chị H. là công nhân có thu nhập ổn định. Để đảm bảo quyền lợi cho con cái cần giao cháu Trần Bảo Ng, sinh ngày 02/02/2012 cho chị H. trực tiếp nuôi dưỡng, anh V. không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung. Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Do các đương sự không đề nghị giải quyết nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. kết hôn với nhau trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 26/10/2011 tại UBND xã T, thành phố T. là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Từ tháng 7/2017 chị H. bỏ về nhà mẹ đẻ sống và làm đơn ly hôn với anh V. Quá trình giải quyết anh V. có quan điểm nhất trí ly hôn với chị H.

Qua xác minh tại nơi cư trú thể hiện cuộc sống vợ chồng chị H. và anh V. bình thường, hiện tại 2 vợ chồng đang sống ly thân nhau.

Như vậy, cuộc sống hôn nhân của chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. không có hạnh phúc, có mâu thuẫn và mâu thuẫn đã đến mức làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng hiện sống ly thân và cùng nhất trí ly hôn nhau. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận xử cho chị Đặng Lệ H. được ly hôn với anh Trần Văn V.

[2]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Bảo Ng, sinh ngày 02/02/2012, chị Đặng Lệ H. và anh Trần Văn V. cùng có quan điểm nhận nuôi cháu và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ xác định được anh V. là lao động tự do, thu nhập không ổn định, chị H. là công nhân may của Công TNHH MSA hưởng lương hàng tháng. Theo bản kê xác nhận mức lương bình quân chị H. đang hưởng là 5.000.000 đồng/ 1 tháng. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu cần chấp nhận yêu cầu của chị H. giao cháu Bảo Ng. cho chị H. trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Do hiện tại chị H. không yêu cầu anh V. phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xet xử không xem xét. Anh V. không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở

[3].Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Các đương sự xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Chị Đặng Lệ H. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 228, 271 - Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

 Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Lệ H. được ly hôn với anh Trần Văn V.

2. Về con chung: Xử giao cháu Trần Bảo Ng, sinh ngày 02/02/2012 cho chị Đặng Lệ H. trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Văn V. không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở

3. Về án phí: Chị Đặng Lệ H. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004876 ngày 10/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Chị H. đã nộp đủ án phí của vụ án.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;