TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 45/2017/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 03 tháng 8 năm 2017 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2017/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2017 về tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Thị T., sinh năm: 1985, Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố X., phường M., thành phố P.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc L., sinh năm: 1982. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố Y, phường Đ., thành phố P.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Võ Thị T.- nguyên đơn- trình bày:
Bà và ông Nguyễn Ngọc L. kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2014, gia đình hai bên có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số YY quyển số 1/2014 ngày AA/BB/CC tại Uỷ ban nhân dân phường M., thành phố P.
Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại nhà mẹ bà khoảng 09 tháng, sau đó thuê nhà ở riêng được 03 tháng; đến khoảng tháng 10 năm 2015 vợ chồng xảy ra cãi nhau, ông L. chửi mắng, đánh bà. Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc vợ chồng thống nhất vay mượn tiền, sửa chữa ghe, sau đó bà và gia đình chồng không thoả thuận được về quyền sở hữu tài sản. Bà đã mang con về nhà mẹ ruột sinh sống từ tháng 10 năm 2015 đến nay, vợ chồng ly thân, không ai quan tâm đến ai.
Bà T. nộp đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân, trình bày vợ chồng ly thân từ tháng 10 năm 2015 đến nay, bà sống cùng cha mẹ tại khu phố X phường M.
Tòa án nhân dân thành phố P. tiến hành xác minh tại Ban quản lý khu phố Y phường Đ. vào ngày 15/3/2017, xác nhận vợ chồng bà T. đã ly thân hơn 01 năm nay.
Do không còn tình cảm yêu thương nên bà đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn vào ngày 08/02/2017, yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn ông L., yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Nguyễn Võ N., sinh ngày 01/9/2014 và không yêu cầu ông L. cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung, vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông L. vắng mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố P. đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định cuả pháp luật tố tụng dân sự.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã đƣợc xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Bà Võ Thị T. và ông Nguyễn Ngọc L. là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số YY quyển số 1/2014 ngày 03/6/2014 tại Uỷ ban nhân dân phường M., thành phố P. Đây là hôn nhân hợp pháp.
[2]Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T. vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ông L. vắng mặt, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho ông L. hoàn toàn hợp lệ.
[3]Theo quy định tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ các lý do chính đáng khác. Bà T. và ông L. đã ly thân từ tháng 10 năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Ông L. không tham gia tố tụng, không mong muốn hàn gắn hôn nhân. Vì vậy căn cứ vào điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.
[4]Về quan hệ con chung: Bà T.nuôi dưỡng cháu Nguyễn Võ N., sinh ngày 01/9/2014 từ khi ly thân đến nay. Theo quy định tại khỏan 1 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà T. được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung là chính đáng và phù hợp quy định cuả pháp luật, nên chấp nhận. Ông L. không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà T. không yêu cầu.
[5]Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng bà T. không có tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, “trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu”, do đó, bà T. phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 4 điều 147, điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 56, khoản 3 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Võ Thị T. đƣợc ly hôn ông Nguyễn Ngọc L.
Về quan hệ con chung:
Bà Võ Thị T. được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Nguyễn Võ N., sinh ngày 01/9/2014, ông L. không có nghiã vụ cấp dưỡng nuôi con do bà T. không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, ông L. có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Nếu ông L. lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà T. (người trực tiếp nuôi con) có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông.
Về án phí:
Bà Võ Thị T. phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00116ZZ ngày 08/02/2017 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Bà T. đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.
Bản án 45/2017/HNGĐ-ST ngày 03/08/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 45/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về