Bản án 444/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 444/2020/HS-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 411/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 444/2020/QĐXXST-HS ngày 14/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 28/11/2000 tại tỉnh Thái Bình; thường trú: 789A tỉnh lộ 4, khu phố 5, phường T, quận T, T; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 và con bà Nguyễn Thị Vĩnh L, sinh năm 1980; có 01 em sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/4/2020; có mặt.

2. Trần Đặng Minh P, sinh ngày 06/12/2001 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 5/12; con ông Trần Minh H, sinh năm 1981 và con bà Đặng Thị Mỹ H, sinh năm 1981; có 01 em sinh năm 2010; tiền án: Bản án số 138/2018/HS-ST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Đ xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội cướp giật tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/12/2019; tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/4/2020. Có mặt.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1981; thường trú: Thôn T, xã C, huyện V, tỉnh B; tạm trú: Tổ 2, khu phố P, phường T, thị xã T, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Chị Nguyễn Thị Thanh Q, sinh năm 1986; thường trú: 16/17 đường L, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty tài chính TNHH HD S; trụ sở: Tầng 8, 9, 10 Tòa nhà G, số 24C P, Phường 6, quận B, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp: Anh Trần Duy H, sinh năm 1994; thường trú: Thôn C, xã L, huyện Đ, tỉnh L, là người đại diện theo ủy quyền. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1976. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P là bạn bè quen biết nhau. Vào khoảng 09 giờ ngày 24/04/2020, Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P ngồi uống cà phê tại quán “N” thuộc phường T, quận T, Thành phố H, H rủ P đi tìm tài sản của người đi đường giật bán lấy tiền tiêu xài. P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 59X3-558.38 chở H đi qua nhiều tuyến đường. Khi đến đoạn đường Đ thuộc khu phố Đ, phường T, thành phố D, cả hai nhìn thấy chị Nguyễn Thị Thu H đang dừng xe bên kia đường và bấm điện thoại nên P từ phía sau chạy lên áp sát phía bên trái xe máy của chị H để cho H ngồi sau dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Vivo V5, màu xanh của chị H nhưng không được, P điều khiển xe máy chạy lên khoảng 5m, thấy chị Nguyễn Thị Thanh Q đang ngồi trên xe môtô nghe điện thoại nên P điều khiển xe áp sát bên trái xe của chị Q để cho H dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 màu hồng của chị Q nhưng không giật được. Đồng thời, tay của H vướng vào kính chiếu hậu của xe chị Q nên P bị mất lái ngã xe xuống đường. H và P bỏ xe chạy bộ khoảng 100m thì bị bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

*Vật chứng thu giữ: Xe mô tô hiệu Honda Winner màu xanh bạc biển số 59X3-482.38; 01 điện thoại di động hiệu Vivo V5 màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 màu hồng; 01 USB.

* Căn cứ kết luận định giá tài sản số 86/BB.ĐG ngày 25/05/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: Điện thoại di động hiệu Vivo V5, màu xanh trị giá 3.000.000 đồng; điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10, màu hồng, trị giá 12.000.000 đồng.

Tại cáo trạng số 444/CT - VKS ngày 30 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Ngọc H về tội cướp giật tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Trần Đặng Minh P về tội cướp giật tài sản theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm d, i khoản 2 Điêu 171; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Đặng Minh P từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Winner, màu xanh bạc, biển số 59X3- 558.38 do Nguyễn Ngọc H đứng tên trên trên giấy chứng nhận đăng ký xe, Hải thế chấp xe cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD s số tiền 40.000.000 đồng, trả góp được 3.242.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe cho công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HD S.

Đối với điện thoại di động hiệu Vivo V5 màu xanh là tài sản của chị Nguyễn Thị Thu H và điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 màu hồng là tài sản của chị Nguyễn Thị Thanh Q, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại cho chị H và chị Q.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được thu hồi trả lại cho các bị hại và các bị hại không yêu cầu gì thêm nên trách nhiệm dân sự không đề nghị xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P không tranh luận, đối đáp gì, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Trần Duy H đề nghị Hội đồng xét xử giao xe cho cơ quan thi hành án dân sự thành phố Dĩ An bán đấu giá xe mô tô để thanh toán khoản nợ vay cho Công ty thu hồi khoản nợ đã ký kết theo hợp đồng tín dụng giữa Công ty với Nguyễn Ngọc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại cơ quan điều tra, các bị hại, người làm chứng không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào khoảng 09 giờ ngày 24/04/2020 tại đoạn đường Đ thuộc khu phố Đ, phường T, thành phố D, Trần Đặng Minh P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 59X3-558.38 áp sát phía bên trái xe máy mô tô của chị H để cho H ngồi sau dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Vivo V5 màu xanh của chị H. P điều khiển xe máy chạy lên khoảng 5m áp sát vào bên trái xe của chị Q, H dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 màu hồng của chị Q nhưng không giật được. Như vậy, hành vi của các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Trần Đặng Minh P đã bị Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Đ xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi rất nghiêm trọng với lỗi cố ý là tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 444/CT - VKS ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò trong vụ án, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo.

[4] Về vai trò trong vụ án: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, phân công vai trò cụ thể. Bị cáo Hải là người rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Trần Đặng Minh P là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo H là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo P đã bị Tòa án xét xử về tội cướp giật tại sản nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, Hội đồng xét xử đã xét xử hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[10] Về trách nhiên dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là điện thoại di động hiệu Vivo V5 màu xanh trị giá 3.000.000 đồng của chị H; điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 màu hồng trị giá 12.000.000 đồng của chị Q. Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không xem xét giải quyết.

[11] Xét 01 xe mô tô hiệu Honda Winner màu xanh bạc biển số 59X3- 558.38 là do Nguyễn Ngọc H đứng tên trên trên giấy chứng nhận đăng ký xe. Nguyễn Ngọc H thế chấp xe cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD S vay 40.000.000 đồng, đã trả góp được 3.242.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD S yêu cầu bị cáo Nguyễn Ngọc H có trách nhiệm trả nợ vay theo hợp đồng tín dụng tín dụng số 2W016782065 ngày 13/3/2020 giữa bị cáo và công ty. Xét thấy, yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử giao xe mô tô hiệu Honda Winner màu xanh-bạc biển số 59X3-558.38 cho Cơ quan thi hành dân sự thành phố Dĩ An phối hợp với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD s tiến hành bán đấu giá để xử lý khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa bị cáo H với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD s, giá trị tài sản còn lại thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[12] Đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An đối với các bị cáo là nghiêm khắc.

[13] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P phạm tội cướp giật tài sản.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2020.

- Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Đặng Minh P 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An phối hợp với Công ty tài chính TNHH HD S xử lý bán đấu giá tài sản là xe mô tô biển số 59X3-558.38 để Công ty tài chính TNHH HD S thu hồi nợ vay theo hợp đồng tín dụng số 2W016782065 ngày 13/3/2020 giữa bị cáo Nguyễn Ngọc H và Công ty tài chính TNHH HD S, giá trị tài sản còn lại (nếu có) tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc H và Trần Đặng Minh P mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 444/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:444/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;