Bản án 444/2019/HSST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 444/2019/HSST NGÀY 26/8/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 439/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 455/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Việt D, tên gọi khác: không. Sinh ngày 05/02/1992. ĐKHKTT: Xóm A, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Nơi ở: Tô X, phương Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Vũ Đình T, sinh năm 1967; Con bà: Cao Thị Thùy L, sinh năm 1969; Vợ con: Chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2019 đến nay). (Có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

Anh Nguyễn Trần Bảo T, sinh năm 1995; (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ Y, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

* Người chứng kiến:

1. Ông Hà Mạnh T, sinh năm 1952. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Đỗ Mạnh H, sinh năm 1956. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

3. Ông Vũ Đình T, sinh năm 1967. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ X, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

4. Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1971. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ P, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 00 phút ngày 13/5/2019, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ B của phường Q, thành phố Thái Nguyên phát hiện 02 nam thanh niên có biểu hiện nghi liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, 02 nam thanh niên chấp hành và lần lượt khai nhận họ và tên là Vũ Việt D và Nguyễn Trần Bảo T. Qua kiểm tra, D tự giác khai nhận đang cất giấu ma túy và giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong có 10 gói nhỏ chứa lá cây khô. Tiếp tục kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ tại túi quần phía trước bên trái D đang mặc có 02 gói nilon màu trắng bên trong chứa lá cây khô và 06 ống hình trụ quấn bằng giấy màu trắng (dạng điếu thuốc lá) bên trong chứa các sợi lá cây khô. D khai là ma tuý loại cần sa. Kiểm tra đối tượng T không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Việt D, thu giữ, niêm phong vật chứng đúng quy định.

Hồi 22 giờ cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành khám xét nơi làm việc của D ở tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình khám xét đã phát hiện thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa lá khô; 10 túi nilon màu trắng kích thước 4x 6 cm; 01 cân điện tử màu đen ghi chữ DIGITAL SCALE; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphon7 Plus vỏ màu đen. D khai lá khô là ma túy cần sa, cân điện tử để cân, đóng gói ma túy bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản và thu giữ vật chứng theo quy định.

Ngày 14/05/2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng lá cây khô trong 12 túi nilon màu trắng, 06 ống hình trụ bằng giấy (dạng điếu thuốc lá) bên trong chứa lá cây khô thu giữ của D khi bắt quả tang có khối lượng 12,636 gam và số lá cây khô thu giữ khi khám xét nơi làm việc có khối lượng 102, 034 gam.

Tại Kết luận giám định số 2571/C09- TT2 ngày 22/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các lá cây khô thu giữ của D khi bắt quả tang và khi khám xét là Cần sa.

Tại Kết luận giám định số 888/KL - KTHS ngày 13/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Số lá khô thu giữ của D khi bắt quả tang và khi khám xét là ma túy loại Cần sa có tổng khôi lương la 114,670 gam.

Tại Cơ quan điều tra Vũ Việt D khai nhận: Do muốn có tiền tiêu sài cá nhân nên khoảng 01 tháng trước khi bị bắt quả tang, qua mạng xã hội D đã mua của 01 nam thành niên tên Đ ở huyện B, tỉnh Lạng Sơn (D không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) 7000.000đ ma túy loại Cần sa. Sau đó D chia thành nhiều gói nhỏ và dạng điếu rồi cất giấu 01 gói tại cửa hàng của mình ở tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, số còn lại giấu trong người, nếu ai hỏi mua thì bán kiếm lời. D đã bán cho Nguyễn Trần Bảo T 03 lần cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 10/5/2019, T gọi điện cho D hỏi mua ma túy Cần sa, D đồng ý và đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên bán cho T 01 gói với giá 220.000đ.

Lần thứ hai: .Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/5/2019, T gọi điện cho D hỏi mua ma túy Cần sa, D đồng ý và đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên bán cho T 01 gói với giá 220.000đ.

Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 13/5/2019, D đang ở nhà thuộc tổ X, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên thì có Nguyễn Trần Bảo T dùng số lạ gọi vào số điện thoại của D là 0983.123.628 lắp trong điện thoại Iphon 7 Phus màu đen hỏi mua ma túy Cần sa với khối lượng là 1 “pack” (khoảng 01 gam), D báo với T là giá 220.000đ. Sau khi thỏa thuận xong, D hẹn T đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Sau đó D lấy 12 gói ma túy Cần sa và 06 điếu ma túy Cần sa đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên để bán cho T nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Vũ Việt D và Nguyễn Trần Bảo T phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong kí hiệu 2571/C09 (TT2) (Bên trong chứa ma túy cần sa - mẫu hoàn lại sau giám định); 01 bì niêm phong ký hiệu L (Bên trong chứa ma túy cần sa); 10 túi nilon kích thước 4x6 cm; 01 cân điện tử màu đen có ghi chữ “DIGITAL SCALE”; 01 điện thoại di động được niêm phong trong phong bì ký hiệu “H”. Hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 435/CT-VKSNDTP, ngày 29/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Vũ Việt D về tội: “Mua ban trái phép chất ma túy” , được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Vũ Việt D khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả. Bị cái thừa nhận việc truy tố là đúng, không oan, sai.

- Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Vũ Việt D phạm tội “Mua ban trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Vũ Việt D từ 07 đến 08 năm tù giam. Phạt bổ sung bị cáo từ 70000.000đ đến 10.000.000đ.

+ Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy : 02 bì niêm phong kí hiệu L, và ký hiệu 2571/C09 (TT2), 10 túi nilon kích thước 4x6 cm (bên trong chứa ma túy); 01 cân điện tử màu đen có ghi chữ “DIGITAL SCALE” .

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 7 Pluss vỏ màu đen; Truy thu số tiền thu lợi bất chính của bị cáo là 440.000đ.

+ Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòabị cáokhông có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ ngày 13/5/2019, tại tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, D đang có hành vi tàng trữ 12,636 gam ma túy loại cần sa để bán cho Nguyễn Trần Bảo T nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên. Ngày 14/5/2019 thực hiện lệnh khám xét nơi làm việc của D ở tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 gói ma túy cần sa có khối lượng 102,034 gam. số ma túy này D tàng trữ để bán kiếm lời. Ngoài ra trong quá trình điều tra bị cáo còn khai nhận trước đó bị cáo đã 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Trần Bảo T, cụ thể: Lần thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 10/5/2019, T gọi điện cho D hỏi mua ma túy cần sa, D đồng ý và đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên bán cho T 01 gói với giá 220.000đ; Lần thứ hai: .Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/5/2019, T gọi điện cho D hỏi mua ma túy cần sa, D đồng ý và đến cổng trường THCS Q, thuộc tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên bán cho T 01 gói với giá 220.000đ.

Như vậy, hành vi của bị cáo Vũ Việt D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Việt D vi phạm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

b) Phạm tội 02 lần trở lên…”.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Vũ Việt D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi của các bị cáo phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS.

Bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo tại khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 01 bì niêm phong kí hiệu 2571/C09 (TT2) (Bên trong chứa ma túy cần sa - mẫu hoàn lại sau giám định); 01 bì niêm phong ký hiệu L (Bên trong chứa ma túy cần sa); 10 túi nilon kích thước 4x6 cm cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 cân điện tử màu đen có ghi chữ “DIGITAL SCALE” và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 7 Plus vỏ màu đen của bị cáo D là những tài sản bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Đối với số tiền 440.000đ bị cáo D bán ma túy cho T vào các ngày 10, 11/5/2019, đây là tiền thu lời bất chính nên cần truy thu sung quỹ nhà nước.

Về nguồn gốc số ma túy Cần sa D khai mua của người nam giới tên Đ không rõ lai lịch địa chỉ ở huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình điều tra không xác đinh đươc nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không co cơ sơ làm rõ xử lý.

Đối với Nguyễn Trần Bảo T là người đã đặt mua ma túy Cần sa của D để sử dụng nhưng do T chưa kịp mua thì bị cơ quan Công an phát hiện nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã lập biên bản giáo dục nhắc nhở.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Việt D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy

Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Vũ Việt D 07 (Bẩy ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo Vũ Việt D 45 ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

[2].Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu 2571/C09 (TT2) (Bên trong chứa ma túy Cần sa - mẫu hoàn lại sau giám định); 01 bì niêm phong ký hiệu L (Bên trong chứa ma túy Cần sa); 10 túi nilon kích thước 4x6 cm.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

01 cân điện tử màu đen có ghi chữ “DIGITAL SCALE”.

01 chiếc điện thoại di động được niêm phong trong phong bì ký hiệu ”H”.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 461 ngày 05/8/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

[3]. Truy thu của bị cáo Vũ Việt D số tiền 440.000đ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) sung quỹ nhà nước.

[4]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[4]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 444/2019/HSST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:444/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;